THUYẾT THOÁT TRUNG: con đường cho dân tộc Việt (p1) Cách đây 119 năm, Fuzukawa Yukichi đăng tải một luận thuyết mà sau đó có tác động lịch ...
THUYẾT THOÁT TRUNG: con đường cho dân tộc Việt (p1)
Cách đây 119 năm, Fuzukawa Yukichi đăng tải một luận thuyết mà sau đó có tác động lịch sử đối với đất nước Nhật Bản. Tiêu đề của nó, cũng đồng thời bao hàm chính nội dung mà nó truyền tải: “Thoát Á Luận”.
Bối cảnh lịch sử Nhật Bản năm 1895, về cơ bản khá giống với vị thế Việt Nam trên thế giới vào năm 2018. Nước Nhật năm 1895, dù đã trải qua thời kỳ của cuộc cách mạng Minh trị Duy tân, nhưng vẫn là một quốc gia gần như vô danh trên bản đồ thế giới. Để đem lại một sức sống mới cho xã hội và nền văn minh Nhật Bản, các nhà tư tưởng và chính trị Nhật Bản gia sức tìm tòi một hướng đi mới cho đất nước mình. Thoát Á Luận của Fuzukawa Yukichi ra đời trong bối cảnh đó, và nó mang trong minh một sứ mệnh lịch sử. Từ những phân tích về bối cảnh và lịch sử Nhật Bản những năm 1880, Fuzukawa đưa ra một luận thuyết để biến đổi lịch sử Nhật Bản, phá bỏ đi những rào cản cũ, cả về kinh tế, chính trị và văn hoá mang màu sắc lạc hậu của một quốc gia phong kiến Á Châu, để hướng về những giá trị và mô hình cách tân hơn, đại diện cho xu hướng phát triển tất yếu của thời đại. Nhật Bản sau đó bước vào một thời kỳ phát triển vũ bão. Đó là quốc gia duy nhất ở Á Châu tham gia cả hai cuộc đại chiến thế giới đều với vai trò cường quốc, sánh ngang với các đồng minh hay đối thủ ở phương tây. Và dù thắng hoặc bại sau chiến tranh, nước Nhật cuối cùng vẫn góp mặt trên bản đồ thế giới với tư cách của một cường quốc.
Vai trò của một học thuyết đúng, và quan trọng là học thuyết ấy được thực thi, có thể nói, sẽ có sứ mệnh quyết định đến lịch sử của một dân tộc.
Ở đây chúng ta gặp phải một cản trở căn bản, không thể so sánh một dân tộc nào khác với dân tộc Nhật Bản ở Á Châu, do đó điều gì là đúng với Nhật Bản sẽ không thể đúng với chúng ta. Lập luận này có cơ sở riêng của nó nếu nhìn nhận vào tố chất con người Việt Nam và Nhật Bản. Từ ví dụ về lịch sử của nhiều quốc gia, trong đó có chính Việt Nam, cho thấy vai trò có tính quyết định của mô hình thể chế, mà linh hồn của nó là hệ tư tưởng, đối với sự phát triển của một xã hội. Nhật Bản ngày nay vĩ đại và được coi trọng, không phải vì tố chất tự thân của người Nhật, cái chắc chắn được hình thành và thay đổi theo thời gian trên cơ sở giáo dục và văn hoá, mà là vì những thành tựu nước Nhật đã đạt được, vì ở những thời khắc bước ngoặt của lịch sử, đất nước ấy và những người lãnh đạo của nó đã có những lựa chọn đúng.
Một ví dụ minh họa khác có thể thấy rất rõ từ lịch sử đất nước Triều Tiên, mà ngày nay chúng ta phải gọi đúng tên là Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc. Đây là hai quốc gia được tách làm đôi từ một đất nước thống nhất, có cùng nguồn gốc văn hoá, lịch sử và nguồn ADN di truyền của cùng một dân tộc. Tuy nhiên chỉ sau một quãng thời gian trên 60 năm, giờ đây đó là hai mặt của một bức tranh tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Hàn Quốc giờ là một trong số quốc gia dẫn đầu thế giới về trình độ phát triển và các tiêu chí của nền văn minh, trong khi Bắc Triều Tiên giờ là mặt trái của sự tụt hậu, đói nghèo, cuồng tín dưới sự cai trị của một mô hình quái đản lai căng giữa độc tài, phát xít và phong kiến cha truyền con nối, được gọi dưới cái vỏ đáng ghê sợ của mô hình ảo tưởng xã hội cộng sản.
Rõ ràng, những ví dụ ấy chứng minh rằng, tố chất của một quốc gia dân tộc không có vai trò quyết định đến những thành tựu mà một quốc gia dân tộc có thể đạt được, mà chính những quyết định lịch sử và những mô hình đúng được áp dụng ở những thời khắc lịch sử, sẽ quyết định những thành tựu của một quốc gia. Nói cách khác, bất cứ dân tộc nào còn giữ được văn hoá và tiếng nói trong bản đồ thế giới ngày nay, đều là những dân tộc vĩ đại vì họ đã duy trì được sự tồn tại của mình sau các biến cố lịch sử, nhưng dân tộc ấy, đất nước ấy đạt được thành tựu gì thì lại phụ thuộc chặt chẽ vào mô hình phát triển và các quyết định lịch sử mà hệ thống chính trị của nó có được ở những thời khắc quyết định.
Nước Nhật không vĩ đại như hiện nay nếu họ tiếp tục bấu víu vào những tàn tích lạc hậu mà không hướng về phương tây, và dân Bắc Triều Tiên không ngu muội và chết đói như hiện nay nếu Kim Nhật Thành lựa chọn mô hình giống miền Nam thay vì bám chân Liên Xô và Trung Quốc.
Dân tộc Việt Nam đầy rẫy những tật xấu đáng ghê sợ, nhưng nó cũng tạo ra vô số chứng tích đáng tự hào trong suốt lịch sử tồn tại. Nhưng Việt Nam hiện nay vẫn đang vật lộn trong sự chậm tiến và đói nghèo, chịu sự o ép và khinh khi. Mà nguy cấp nhất, đáng sợ nhất, chính là mối nguy về cuộc xâm lăng của Trung Quốc. Chúng ta không thể cứ bấu víu mãi vào lịch sử đấu tranh độc lập lâu dài và cho rằng Việt Nam sẽ vẫn mãi độc lập như một nghìn năm nay vẫn thế. Nếu dân tộc này không có những lựa chọn đúng, thì Tân Cương và Tây Tạng chính là tương lai của Việt Nam, khi đã đánh mất cả nền độc lập, nền văn hoá và thậm chí là cả quyền sinh tồn bình đẳng trên chính mảnh đất chôn rau cắt rốn của họ.
Việt Nam năm 2018 đang đứng ở bối cảnh của một quốc gia cô đơn, không bạn bè, không đồng minh, nền kinh tế phát triển ì ạch, tham nhũng đã trở thành căn bệnh di căn, đất nước chịu sự đe doạ nặng nề về hiểm hoạ xâm lăng. Nguy hại hơn, nền kinh tế Việt Nam hiện giờ đang lệ thuộc chặt chẽ vào chính mối nguy cơ lớn nhất của nó, chính là Tàu Khựa. Một tương lai tăm tối đang chờ đón người Việt, nếu những quyết định lịch sử không được đưa ra ở ngay thời khắc này.
Giống như hai mặt của cùng một vấn đề, hiểm hoạ cũng luôn đi kèm cơ hội. Trên thực tế cuộc xâm lược mềm của Trung Quốc với Việt Nam đã diễn ra âm thầm trong hơn 20 năm qua. Tàu Khựa thành công trong việc trói chặt và bóp nghẹt nền kinh tế Việt Nam, biến Việt Nam thành một công cụ xuất khẩu phái sinh cho hàng hoá Trung Quốc. Các chính sách phá hoại thâm độc như bán hàng độc hại, các hoạt động buôn bán phá hoại của tình báo đội lốt thương nhân Tàu đã làm thoái hoá từ từ nhưng vững chắc sức khoẻ và giống nòi của người Việt Nam. Những nghiên cứu gần đây nhất đều chỉ rõ những thống kê đáng báo động về tỷ lệ dị tật thai nhi, các bất thường trong sinh sản và đặc biệt là tỷ lệ vô sinh không rõ nguyên nhân của người Việt Nam. Có thể nói, chúng ta đang chịu một cuộc diệt chủng từ từ nhưng chắc chắn từ các chính sách tổng hợp của người Trung Quốc. Nếu Trung Quốc cứ tiếp tục áp dụng chiến lược đáng sợ này, trong vòng 20 năm tới, nhiều khả năng Việt Nam sẽ là một Tân Cương mới hay Tây Tạng. Tuy nhiên với bản chất hiếu chiến, tham lam và khát máu, tự tin với sức mạnh vượt trội, năm 2018 Trung Quốc xua chiến hạm xuống biển đông,xây dựng đảo thành căn cứ quân sự,sử dụng vũ lực để đánh đuổi ngư dân và không cho Việt Nam khai thác tài nguyên, mở ra một thời kỳ của một cuộc xâm lăng công khai đầy đe doạ với Việt Nam. Nguy cơ lớn này, ở một khía cạnh nào đó, lại chính là cơ hội lịch sử của người Việt.
Chúng ta đang đang đứng trước nguy cơ của một thời kỳ mà một cuộc xâm lăng bằng quân sự có thể nổ ra. Đó là một hiểm hoạ có tính sinh tồn nhưng chắc chắn người Việt sẽ đối phó được. Mặt khác, người Việt đang đứng trước một cơ hội lịch sử để thoát khỏi cuộc xâm lược âm thầm và cuộc chiến thoái hoá giống nòi mà Trung Quốc âm thầm áp dụng trong suốt 20 năm qua.
Tiền đề của luận thuyết Thoát Trung được xây dựng trên một số nguyên tắc có tính nền tảng:
1. Chấm dứt hoạt động kinh tế lệ thuộc nặng nề vào nền kinh tế Trung Quốc.
2. Thay đổi hệ thống chính trị,cho phép Việt Nam xây dựng được quan hệ đồng minh với các xã hội phát triển phương tây.
3. Chấm dứt luận thuyết đối ngoại có tính ảo tưởng: Việt Nam phát triển độc lập, tự chủ, làm bạn với tất cả các quốc gia (thực ra chẳng có bạn mẹ nào, mà chỉ có quan hệ làm ăn dạng cùng có lợi hoặc là bất lợi), chuyển sang việc tìm kiếm các mối quan hệ đồng minh, xây dựng và tham gia các hiệp ước liên minh và an ninh tập thể với những đối tác có cùng lợi ích.
(một bài viết từ một người Anh đáng kính dấu tên. )
Không có nhận xét nào