Còn nhớ cách đây mấy năm, Nguyễn Đức Tồn cho cháu nhà báo của mình lu loa ầm ĩ trên báo chính thống, rằng tân Viện trưởng Viện Ngôn ngữ đã ...
Còn nhớ cách đây mấy năm, Nguyễn Đức Tồn cho cháu nhà báo của mình lu loa ầm ĩ trên báo chính thống, rằng tân Viện trưởng Viện Ngôn ngữ đã dám to gan đuổi giáo sư ra hành lang.
Nguyễn Đức Tồn chửi như chưa bao giờ được chửi. Hết chửi tân Viện trưởng thì lại chửi cha đứa nào ủng hộ tân Viện trưởng. Chu gia bị vạ lây vì không chửi nhau với hắn mà dám bình luận: Tống ông Tồn ra hành lang là đúng! Nay nói thêm, chỉ có kẻ gian mới nuôi kẻ cắp trong nhà.
Bây giờ Viện Ngôn ngữ học đã chính thức bỏ phiếu tống ông Tồn về vườn. Ở quê, nếu có quen tay ăn cắp gà vịt thì tội nhẹ hơn. Đó cũng là lòng nhân đạo.
Hiện Giáo sư tiến sĩ đạo văn Nguyễn Đức Tồn, dù hết tuổi quản lý, nhưng vẫn đang chễm chệ ngồi ghế Chủ tịch Hội đồng Tạp chí Ngôn ngữ, tức vẫn làm bang chủ cho bà Vũ Thị Sao Chi dựa lưng với quyền sinh quyền sát trong hoạt động khoa học và đăng bài để chạy học hàm học vị.
Nguyễn Đức Tồn chửi cả Viện là đúng. Mẹ kiếp chúng mày đã hất cẳng ông. Viện Ngôn ngữ nên cảnh giác hỏa hoạn.
Cái ghế Chủ tịch hội đồng cũng đồng nghĩa với quyền lợi mà ông Tồn đang hưởng. Không phải chỉ là lương. Nguyễn Đức Tồn đang chủ trì một đề tài cấp nhà nước trị giá lên đến 4,5 tỉ. Đề tài về giáo dục ngôn ngữ cho học sinh dân tộc thiểu số!
Với trình độ đạo văn siêu hạng, từ ăn cắp nguyên con đến xào nấu bằng cách dùng phép thế qua từ đồng nghĩa, Tồn tha hồ đạo các sách dạy tiếng dân tộc thiểu số đã có để tiêu ngốn cho hết 4,5 tỉ.
4,5 tỉ ấy tất nhiên chỉ là một trong vô số những đề tài lâu nay các giáo sư tiến sĩ như ông Tồn chủ trì đang xếp trong các ngăn kéo. Đạo văn không là chuyện chữ nghĩa mà là tiền.
Bị đuổi ra khỏi Viện Ngôn ngữ cũng đồng nghĩa Tồn đang trong nguy cơ miễn nhiệm chủ trì đề tài với 4,5 tỉ đã đưa vào miệng kia. Tồn chửi là phải. Tiên sư cả đám không biết ăn cắp đã ăn cắp tiền từ miệng ông.
Nhưng tôi tin, khi cụ Bá trên cao chưa chịu phế học hàm giáo sư của ông Tồn thì ông Tồn vẫn còn cơ hội đạo văn và nuốt trôi một phần lớn 4,5 tỉ, trong đó có phần cho cụ Bá.
https://www.facebook.com/TuancongThuphong/posts/2212314622332578
Ps: Xem thêm
HOAN NGHÊNH “HỘI NGHỊ ĐUỔI GIÁO SƯ” !
Theo một nguồn tin đã được kiểm chứng, GS.TS. Nguyễn Đức Tồn sẽ không tiếp tục được gia hạn kéo dài thời gian công tác theo Nghị định 40 ở Viện Ngôn ngữ học, và cụ thể ở vị trí Chủ tịch Hội đồng biên tập Tạp chí Ngôn ngữ (như đã từng 6 lần [tương ứng 6 năm] được gia hạn trước đây).
Cụ thể, trong cuộc họp liên tịch giữa lãnh đạo Viện Ngôn ngữ học, Cấp ủy và Ban chấp hành Công đoàn Viện Ngôn ngữ học, các thành viên đã biểu quyết và nhất trí cao, quyết định không tiếp tục gia hạn, kéo dài công tác đối với ông Nguyễn Đức Tồn (sinh tháng 1/1952).
Tuy nhiên, ông Tồn cho rằng, kết quả bỏ phiếu không khách quan, do ông bị "trù dập", vì thế ông tiếp tục giở bài cũ: chửi bới, kiện cáo, không thừa nhận quyết định của cuộc họp liên tịch.
Với mục đích để ông Tồn phải tâm phục khẩu phục, Viện Ngôn ngữ học tiếp tục tổ chức lấy ý kiến của cán bộ chủ chốt (lãnh đạo Viện, Bí thư, Chủ tịch Công đoàn, Bí thư Đoàn thanh niên, các Trưởng, Phó phòng và tương đương v.v.), bỏ phiếu kín. Kết quả: 15/17 phiếu nhất trí không kéo dài thời gian công tác đối với ông Tồn, 2 phiếu trắng.
Tuy nhiên, sau cuộc họp này, ông Tồn vẫn đến cơ quan Viện ngôn ngữ và ngang ngược tuyên bố “còn lâu mới đuổi được ông”. Ông Tồn gọi tên các cuộc họp này là "Hội nghị đuổi Giáo sư"!
Vậy, lý do nào để ông Nguyễn Đức Tồn giở bài ăn vạ, chống lại quyết định “đuổi Giáo sư” của Viện Hàn lâm và Viện ngôn ngữ, với sự đồng thuận gần như tuyệt đối, thể hiện qua hai lần biểu quyết và bỏ phiếu?
Theo Nghị định 40/2014 của Chính phủ, thì Điều 9 “Kéo dài thời gian công tác khi đủ tuổi nghỉ hưu” quy định rõ tại điểm “b” và “c” như sau:
“b) Có đủ sức khỏe và có nguyện vọng được kéo dài thời gian công tác;
c) Tổ chức khoa học và công nghệ có nhu cầu và chấp thuận”.
Như vậy, ngay cả khi ông Tồn “có đủ sức khỏe và có nguyện vọng được kéo dài thời gian công tác”, nhưng Viện ngôn ngữ không “có nhu cầu” và không “chấp thuận”, thì ông Tồn cũng không có lí do gì để buộc cơ quan này phải bố trí công việc cho ông. Ấy là chưa kể đến việc ông Tồn đang đội cái án đạo văn thế kỷ lù lù trên đầu, cùng với “cục cưng” của ông bao năm làm ô uế chốn tôn nghiêm Viện Ngôn ngữ học.
Cũng theo Nghị định 40 của Chính phủ, thời gian kéo dài công tác “không quá 10 năm đối với giáo sư” và “không quá 7 năm đối với phó giáo sư”. Trong khi đó, có lẽ do ông Tồn giở bài cùn, nên Viện Hàn lâm và Viện Ngôn ngữ học đã phải 6 năm gia hạn kéo dài thời gian công tác cho ông. Và giờ đây, khi có quyết định chấm dứt gia hạn, thì ông lại tiếp tục chửi bới, kiện cáo một mực đòi được gia hạn nốt 4 năm nữa để “cống hiến”?
Vậy, ông Nguyễn Đức Tồn có gì để “cống hiến”?
Ông Tồn sao chép hàng trăm trang Luận án, Luận văn, Khoá luận của học trò mình chưa đủ, ông còn đạo đến Luận án của học trò đồng nghiệp, đạo luôn chức danh hướng dẫn, rồi lại cưỡng gian, chiếm đoạt những bài nghiên cứu đứng tên chung với người khác. Ông Tồn lý giải, đó là ông lấy lại những gì đã “vạch” ra cho học trò, đọc cho trò chép.
Tuy nhiên, cách lý giải của ông Tồn đã tố cáo chính ông.
Nếu thực sự trong đầu ông Tồn có nhiều kiến thức đến mức, khi về hưu vẫn dùng chưa hết, thì tại sao ông phải bòn mót, “lấy lại” những gì đã “cho” trò? Ông phải đủ sức làm những đề tài mới, với những sáng tạo, phát hiện mới; hoặc ông phải có đủ trình độ, khả năng để công bố những bài nghiên cứu khoa học với tư cách là tác giả độc lập mới phải. Đằng này, dựa vào thế người biên tập, ông Tồn tự cho mình cái quyền đứng ké tên, nghiễm nhiên trở thành đồng tác giả, rồi sau đó, khi sao chép đem in sách, ông chú thích là “cộng tác”, “có sử dụng tư liệu”, hoặc bỏ hẳn tên người đồng tác giả đi.
Một vấn đề đặt ra nữa. Nếu thực sự ông Tồn là nhà khoa học tài năng, thì có nhất thiết Viện Ngôn ngữ phải gia hạn công tác, ông mới có cơ hội cống hiến không? Dĩ nhiên là không. Vì sau khi nghỉ làm quản lý, đây mới chính là lúc ông có thể dành toàn bộ thời gian, công sức, trí tuệ cho những công trình, tác phẩm có giá trị cho đời. Tuy nhiên, vì bất tài lại muốn leo cao, nên ông tìm cách đạo văn để có được chức danh giáo sư. Khi có chức danh giáo sư rồi, ông lại tiếp tục đạo văn để mong có được Giải thưởng Hồ Chí Minh (nhưng đã bị đánh trượt, không được một phiếu nào). Khi đã hết tuổi công tác, ông vẫn cố sống cố chết bám lấy vị trí Chủ tịch Hội đồng biên tập Tạp chí Ngôn ngữ, và giữ chiếc ghế trong Hội đồng chức danh giáo sư ngành ngôn ngữ học.
Ngay sau đây sẽ là những bằng chứng cho thấy, về sức khoẻ, có thể ông Nguyễn Đức Tồn hãy còn có thể ở lại để “hiến cống” một cách sung mãn, nhưng với tri thức trí tuệ, thì từ lâu ông đã trở thành kẻ đạo tặc chữ nghĩa, nói chi đến chuyện “cống hiến”.
Để chứng minh điều đó, xin tóm lược số phận của bài báo “Đặc điểm danh học và ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ “sự kết thúc cuộc đời” của con người” đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ (số 3 năm 1994), đứng tên đồng tác giả Nguyễn Đức Tồn và Huỳnh Thanh Trà như sau:
1-Năm 2002, trong cuốn sách “Tìm hiểu đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt: Trong sự so sánh với những dân tộc khác” (NXB Đại học Quốc gia-2002), ông Tồn lấy nguyên nội dung bài báo nói trên, gạt bỏ hoàn toàn tên đồng tác giả Huỳnh Thanh Trà. Ông bị các Hội đồng GS 2002 và 2006 bắt lỗi đạo văn.
2-Năm 2003, trong một cuốn sách có tên gọi hoàn toàn khác: “Mấy vấn đề lí luận và phương pháp dạy-học từ ngữ tiếng Việt trong nhà trường” (NXB Đại học Quốc gia-2003), bài viết chung của ông Tồn và Huỳnh Thanh Trà lại lù lù xuất hiện, với chú thích “Phần này được viết có sự cộng tác của Huỳnh Thanh Trà”. Cuốn sách này là một trong 2 công trình được khai trong hồ sơ xét phong GS năm 2009. Và Hội đồng các cấp đánh giá là “sạch”, để ông Tồn được công nhận GS.
3-Năm 2010 (tức chỉ 1 năm sau khi ông Tồn được phong GS), cuốn sách được chỉnh sửa và xuất bản với tên gọi “Đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy” (GS.TS. Nguyễn Đức Tồn-NXB Từ điển bách khoa-2010). Sách này được tái bản năm 2015. Trong đó, bài viết chung với Huỳnh Thanh Trà lại tiếp tục được ông Tồn đem sử dụng, mà không hề có tên của bà Huỳnh Thanh Trà.
4-Năm 2013, trong cuốn sách với tên gọi hoàn toàn khác: “Những vấn đề của Ngôn ngữ học cấu trúc dưới ánh sáng lí thuyết Ngôn ngữ học hiện đại” (GS. TS. Nguyễn Đức Tồn-NXB Khoa học xã hội-2013), dành để dạy cho bậc tiến sĩ ở Học viện Khoa học Xã hội, thì bài này một lần nữa được tái sử dụng, và cũng không hề có tên của Huỳnh Thanh Trà.
Như vậy, bài viết “Đặc điểm danh học và ngữ nghĩa của nhóm từ chỉ “sự kết thúc cuộc đời” của con người” (Nguyễn Đức Tồn-Huỳnh Thanh Trà) đã bị ông Tồn cưỡng gian, đẩy tên người đồng tác giả ra ngoài, và sử dụng tới 4 lần, in trong 4 cuốn sách có tên khác nhau, nhưng nội dung na ná như nhau.
Chuyện ông Nguyễn Đức Tồn đạo văn, có thể nói không bút nào tả xiết. Nhưng chỉ với dẫn chứng vừa nêu cũng đủ thấy, trước đây ông Tồn đã không thể có khả năng sáng tạo, đóng góp gì cho lĩnh vực ngôn ngữ, thì giờ đây, ông lại càng không thể “cống hiến” gì cho khoa học.
“Hội nghị đuổi Giáo sư” là cách nói hàm ý rêu rao, vẻ như oan ức của ông Nguyễn Đức Tồn. Tuy nhiên, nếu Viện Hàn lâm và Viện ngôn ngữ học có tổ chức một “Hội nghị đuổi Giáo sư” thật, thì cũng không có gì quá đáng. Bởi lẽ, “đuổi Giáo sư” ở đây được hiểu cụ thể là “đuổi Giáo sư đạo văn Nguyễn Đức Tồn”, chứ không phải giáo sư nào khác.
Vậy, xin được nhiệt liệt hoan nghênh “Hội nghị đuổi Giáo sư” của Viện Hàn lâm và Viện Ngôn ngữ học Việt Nam.
Hy vọng công lý sẽ tiếp tục được thực thi đối với ông Nguyễn Đức Tồn ở Hội đồng Chức danh giáo sư Nhà nước.
Hoàng Công Tuấn/ Chu Mọng Long
Không có nhận xét nào