Page Nav

HIDE

Grid

GRID_STYLE

Breaking News:

latest

KISSINGER BÁN BIỂN CHO TÀU – SỰ THẬT TRẬN HOÀNG SA

Kissinger Bán Biển Cho Tàu – Sự Thật Trận Hoàng Sa Tác giả: GS: Nguyễn Tiến Hưng --------------------------- Giới thiệu của tác giả:...

Kissinger Bán Biển Cho Tàu – Sự Thật Trận Hoàng Sa
Tác giả: GS: Nguyễn Tiến Hưng
---------------------------
Giới thiệu của tác giả: Tại sao ngày nay Trung Quốc uy hiếp Biển Đông? Đó là vì cửa vào vùng này được rộng mở từ bốn mươi năm trước. Năm 1974 Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa không chỉ để tìm dầu lửa, mục đích xa hơn còn là để xem Hoa Kỳ có phản ứng gì không sau khi đã rút khỏi Miền Nam, nơi đã từng là tiền đồn ngăn chận Trung Cộng. Hoa Kỳ không phản đối gì, lại còn nói rõ (cho Trung Quốc biết?) là "lực lượng quân sự Mỹ không có dính líu gì vào vụ này đâu." Chuyện lạ là Bộ Ngoại Giao dưới sự lãnh đạo của Bộ trưởng Henry Kissinger còn khuyên can TT Thiệu "Đừng đụng độ với Trung Quốc về mấy hòn đảo" một điều mà 40 năm sau, chính tác giả này cũng mới biết.
Trước Hoàng Sa, một cái chốt ở phía Bắc eo biển Đài Loan cũng đã được khai thông. Như vậy Bắc Kinh có thể yên tâm. Chỉ cần mua thời gian để chờ cho tới khi thật mạnh thì ra tay. Đang khi chuẩn bị thì Trung Quốc may mắn nhận được sự tiếp sức của chính người đã có công trong việc mở cửa Bắc Kinh Henry Kissinger.... Trong cuốn "KHI ĐỒNG MINH NHẢY VÀO" sắp xuất bản có thêm một phần cập nhật cuốn "KHI ĐỒNG MINH THÁO CHẠY." Bài này trích dẫn từ phần ấy cho Việt Báo Xuân Ất Mùi 2015.
Người dân chài làm ăn thường thường là cần cù, lương thiện. Nhưng khi người lính đội lốt dân chài lẩn vào ngư dân đi đánh cá thì thật là nguy hiểm, dù đánh cá ở Scarborough, Kinsaku hay Hoàng Sa. Năm 1959 ngư thuyền Trung Quốc đưa người vào đánh cá trên Hoàng Sa. Không biết là dân chài thật hay giả, Tổng Thống Ngô Đình Diệm lập tức cho lệnh trục xuất. Bộ Ngoại Giao Mỹ dưới sự lãnh đạo của Ngoại trưởng Foster Dulles không e ngại TQ trả đũa, cũng không ngăn chận TT Diệm.
Tới 1974, ngư thuyền Trung Quốc lại quay về Hoàng Sa, nhưng lần này thì có chiến hạm đi theo. TT Thiệu ra lệnh mời những tầu này ra. Khi chiến hạm cứ tiến vào, Hải quân VNCH khai hỏa.
Trận chiến kéo dài một ngày. Ngay sau đó, Bộ Ngoại Giao Mỹ dưới sự lãnh đạo của Ngoại trưởng Henry Kissinger can ngăn TT Thiệu hãy ngừng lại ngay, đừng đụng độ với Trung Quốc thêm nữa!
Câu chuyện đáng buồn này thì tới bây giờ chính tác giả cũng mới được biết. Như vậy thì hóa ra: ý nghĩa của trận Hoàng Sa thật sâu xa: về thực tế, là để bảo tồn lãnh thổ, nhưng về nguyên tắc, nó phản ảnh một cố gắng hoàn toàn ngoài sức mạnh của VNCH ngăn chận Trung Quốc khỏi tràn xuống Biển Đông. Chiếm được Hoàng Sa xong, không thấy Mỹ phản ứng gì là Trung Quốc nhẹ nhõm, yên tâm chuẩn bị. Ngày nay thì Trung Quốc đã thật mạnh cho nên có thể cho cả ngư thuyền, cả chiến hạm tự do ra vô vùng Lưỡi Bò. Rồi đem cả dàn khoan khổng lồ tới Hoàng Sa để khai thác dầu lửa, chẳng cần đề ý tới hải phận hay Công ước Luật Biển UNLOS hay vùng đặc quyền kinh tế, hay nguyên tắc hành xử COC.
Đó là vì cửa xuống Biển Đông đã được mở rộng từ 40 năm trước rồi, Trung Quốc chỉ cần chờ đúng thời điểm.
*
Khai thông hai lối vào Biển Đông:
1. Qua ngã Hoàng Sa
Quân đội Mỹ vừa rút xong, Trung Quốc (TQ) đã muốn tìm hiểu xem thực sự Mỹ có can thiệp trở lại không, Washington có thay đổi lập trường ngăn chận Trung Cộng hay không? Đó là một trong những lý do dẫn đến biến cố Hoàng Sa ngay đầu năm 1974.
Đây là cảm tưởng chúng tôi có được sau khi hàn huyên với TT Thiệu về biến cố này. Thừa lúc Miền Nam mất hẳn sự yểm trợ của quân lực Mỹ, lại sắp hết cả viện trợ, TQ lấn chiếm Hoàng Sa. Nhưng dù trong hoàn cảnh nghiệt ngã, Hải quân VNCH vẫn chống trả.
Ngày 18 tháng 1, ông Thiệu bay ra tận Đà Nẵng, lấy giấy ra viết tay thẳng cho Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên Hải), mà không ra lệnh qua hệ thống chỉ huy quân giai.
Trên đầu trang ông viết: “Chỉ thị cho Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải "Thứ nhất là tìm đủ mọi cách ôn hòa mời các chiến hạm Trung Cộng ra khỏi lãnh thổ VNCH. Thứ hai, nếu họ không thi hành thì được nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này và nếu họ ngoan cố thì toàn quyền xử dụng vũ khí để bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ VNCH."
Viết lệnh xong, ông Thiệu cất giọng: “Anh Thoại, đến đây và đọc trước mặt tôi đây, có gì không rõ ràng thì cho tôi biết ngay từ bây giờ."
Dù bị mất Hoàng Sa, Hải quân VNCH đã gây tổn thất lớn cho đối phương. Theo Phó Đề đốc Thoại kể lại trong cuốn “Can Trường Trong Chiến Bại” thì Hộ tống hạm Kronstat 274 của Trung Quốc bị bắn chìm. Vì tầu này là soái hạm nên hầu hết bộ tham mưu đều tử trận gồm cả Đô đốc Phương Quang Kinh, Tư lệnh Phó của Hạm đội Nam Hải, 4 đại tá, 6 trung tá, 2 thiếu tá, 7 sĩ quan cấp úy và một số đoàn viên. Ngoài ra, Trục lôi hạm số 389 và số 396 bị hư hại nặng (trang 169-180).
Về phía VNCH: Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ 10) bị bắn chìm, chỉ huy trưởng Ngụy Văn Thà cùng 24 chiến sĩ tử thương và 26 mất tích. Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ 4) bị hư hại với hai tử thương; Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ 5) bị hư hại với hai tử thương; Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ 16) chịu một tử thương và 14 chiến sĩ trôi dạt trên xuồng cao xu về Quy Nhơn. Ngoài ra còn hai nhân viên người nhái tử thương trên đảo và 28 quân nhân bị bắt làm tù binh. [Có tin là Mao Trạch Đông đã cho tới hơn 40 chiến hạm đến vùng biển Việt Nam để làm lá chắn cho Hoàng Sa sau ngày đánh chiếm (Lê Mai, 5/21/2014).]
Sau trận hải chiến, TT Thiệu ra lệnh oanh tạc
Khi chúng tôi hỏi TT Thiệu về trận này và nhắc lại là đầu năm 1974 ông có chỉ thị cho chúng tôi báo cáo cho thật trung thực về tình hình viện trợ Mỹ, chúng tôi đã trình bày là về tiếp liệu, quân nhu và quân cụ thì chúng tôi không biết rõ, nhưng về ngân sách dành cho Việt Nam thì sắp hết rồi vì Quốc hội Mỹ bắt đầu cắt xét rất mạnh tay. Tôi hỏi ông là tại sao ông biết đã đến lúc cạn kiệt rồi mà vẫn còn chống cự cả Trung Quốc? Ông không trả lời thẳng nhưng suy nghĩ giây lát rồi lẩm bẩm - tôi không nhớ rõ nguyên văn nhưng đại khái ông nói: "Tôi còn định đi thêm bước nữa," rồi nhìn tôi và lắc đầu. Thấy ông có vẻ tư lự, chúng tôi nói sang chuyện khác.
Sau này chúng tôi có nghe loáng thoáng là sau trận hải chiến ở Hoàng Sa, TT Thiệu ra lệnh cho Không Quân VNCH ra oanh tạc chiến hạm Trung Quốc nhưng rồi lệnh được rút lại. Tại sao như vậy? Ngày nay thì ta đã có câu trả lời bằng văn bản. Trước hết về lệnh cho Không Quân ra khơi để phản công thì chúng tôi có phối kiểm với Đại tá Nguyễn Quốc Hưng (Phụ Tá Tham Mưu Phó Hành Quân, Bộ Tư lệnh Không quân, phụ trách toàn bộ 19 phi đoàn khu trục của VNCH) thì ông đã xác nhận là đúng và kể lại rằng Tư lệnh Không Quân đã được mật lệnh của Tổng thống phải dùng phản lực cơ chiến đấu siêu thanh F5-E để oanh kích phản công địch trên đảo Hoàng Sa. Đoàn phi công đã cất cánh hai lần để ra khơi, một lần buổi trưa và một lần buổi chiều, mỗi lần gồm hai phi tuần. Nhưng vừa bay được khoảng trên một trăm dậm thì nhận được đặc lệnh phải quay trở về đáp và hủy bỏ ngay các phi vụ không kích này.
Lý do là Đệ Thất Hạm Đội yêu cầu ngừng ngay kế hoạch oanh tạc và nhấn mạnh rằng sẽ không có top cover (yểm trợ trong trường hơp bị phi cơ của Trung Quốc từ Hải Nam lên không chiến) và cũng không có "rescue" (cứu vớt nếu bị bắn rơi). Trong số những quân nhân tham gia phi vụ không kích này, các nhân chứng còn sống hiện nay thì ngoài ông Quốc Hưng còn có các Thiếu tá Phạm Đình Anh (California), Đàm Tường Vũ (Arizona), Vũ Viết Quý (California), và Hồ Văn Giầu (Las Vegas).
Trước hết về lệnh cho Không Quân ra khơi oanh tạc thì chúng tôi có phối kiểm với Đại tá Nguyễn Quốc Hưng (hiện ở Salem, Oregon) Phó Trưởng phòng đặc trách về toàn bộ Khu Trục của không lực VNCH (thuộc Phòng Tham Mưu Phó Hành quân, Bộ Tư lệnh Không quân) thì ông đã xác nhận là đúng và kể lại chi tiết về sự việc này, tóm tắt như sau: vào 8 giờ tối cùng ngày 19 tháng 1, Phòng Hành Quân nhận được một cú điện thoại (máy điện thoại đỏ) từ văn phòng Tư lệnh Không quân Trần Văn Minh. Vì Tham Mưu Trưởng Hoài đang bị bệnh và điều trị tại Nhà thương Cộng Hòa, Tham Mưu Phó là ông Nguyễn Quốc Hưng (lúc đó là Trung Tá) trả lời. Ông được lệnh về trình diện Tư Lệnh Phó Nguyễn Xuân Lành (vì Tướng Minh đang đi thị sát mặt trận). Ông Lành cho biết Đại tá Cầm từ Văn phòng tổng thống gọi và cho biết lực lượng F5 của không quân phải chuẩn bị để thi hành một công tác đặc biệt và tối mật của tổng thống.
Sau đó ông Hưng được xe jeep chở vào Dinh Độc Lập. Tới nơi, ông mới biết lệnh của tổng thống là phải chuẩn bị ba phi tuần để có mặt tại Đà Nẵng vào 6 giờ sáng hôm sau, rồi trực ở đó 24/24 giờ. Lệnh được thi hành ngay. Từ Đà Nẵng, đúng 12 giờ trưa thì ba phi tuần trang bị hỏa tiễn và loại bom nặng 750 được lệnh cất cánh và mục tiêu là oanh tạc tất cả những gì di động quanh Hoàng Sa. Máy bay ông Hưng dẫn đầu, các máy bay khác theo sau với độ cao khác nhau làm thành một đội hình. Nhưng vừa bay được khoảng 86 dậm thì ông Hưng (với mật hiệu Thần Ưng 01) nhận được điện thoại ra lệnh phải quay về để nhận lệnh khác. Về tới nơi, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn cho biết Đệ Thất Hạm Đội yêu cầu ngừng phi vụ này. Ngày hôm sau, phi đội lại bay ra khơi một lần nữa nhưng lại có lệnh gọi về. Sau cùng, trong phiên họp de-briefing Trung tướng Ngô Quang Trưởng cho biết là cả Đệ Thất Hạm Đội, cả Tư lệnh Hải Quân Mỹ ở Thái Bình Dương đều yêu cầu ngừng ngay kế hoạch oanh tạc và nhấn mạnh rằng sẽ không có top cover (yểm trợ trong trường hơp bị phi cơ của Trung Quốc từ Hải Nam lên không chiến) và cũng không có "rescue" (cứu vớt khi bị bắn rơi).
Về việc Đệ Thất Hạm Đội Mỹ ở ngay gần Hoàng Sa nhưng không yểm trợ khi VNCH yêu cầu thì Bí thư Hoàng Đức Nhã đã nói đến, nhưng còn một chuyện lạ lùng khác: ngay sau khi xảy ra giao tranh, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ do Ngoại trưởng Kissinger lãnh đạo đã gửi mật điện cho Đại sứ Martin ở Sàigòn nhấn mạnh ý muốn của Bộ là "phải hạ nhiệt tình hình" (cooling the situ ation)và can ngăn TT Thiệu đừng đi thêm bước nữa.
Bức mật điện đề ngày 19 tháng 1, 1974 gửi Đại sứ Martin (có thông báo cho White House) gồm những điểm chính như sau:
Thông báo cho ông Đại sứ là:
-"Xung đột quân sự tại Hoàng Sa đã đưa đến thương vong cho VNCH với hai chiến hạm bị tên lửa STYX của Trung Quốc bắn chìm. Chính phủ VNCH có yêu cầu Mỹ giúp tìm kiếm và cứu vớt các nạn nhân.
-Bộ Ngoại Giao đã yêu cầu Bộ Quốc Phòng ra lệnh cho Hải quân Hoa Kỳ tránh khỏi khu vực giao tranh.
-Ý muốn của Bộ là tình hình phải được hạ nhiệt ("cooling the situation").
-Lập trường của Hoa Kỳ đối với báo chí sẽ là:
. Chính phủ Hoa Kỳ không đứng về phe nào trong việc tranh chấp Hoàng Sa nhưng hết sức mong muốn là sự tranh chấp được giải quyết trong hòa bình.
. Lực lượng quân sự Mỹ không dính líu gì vào xung đột này.
Yêu cầu Tòa Đại sứ cố vấn chính phủ VNCH:
- Chỉ nên có những hành động tối thiểu để tự vệ và để cứu vớt nạn nhân; và
- Làm bất cả những gì có thể để tránh đụng độ với lực lượng Trung Quốc; vì
- Đụng độ với Trung Quốc về mấy hòn đảo trong lúc này, dẫn tới những hành động bất chấp của Trung Quốc là điều không có lợi cho bên nào. /MẬT
Về mật điện ngày 19 tháng 1, 1974, ta có thể nhận xét như sau:
- Chính phủ VNCH yêu cầu Mỹ giúp tìm kiếm và cứu vớt các nạn nhân như trên đây (ngoài số tử thương còn 68 binh sĩ VNCH bị mất tích và bắt làm tù binh) nhưng bị từ chối.
- Đã không yểm trợ chiến đấu, đã ra lệnh cho Hải quân Hoa Kỳ tránh né khỏi khu vực giao tranh, lại còn tuyên bố cho rõ ràng là "Chính phủ Mỹ không đứng về phe nào trong việc tranh chấp Hoàng Sa" và xác định cho (Bắc Kinh?) biết là Lực lượng quân sự Mỹ không dính líu vào vụ xung đột này."
- Không đứng về phe nào thì tại sao lại khuyên can chính phủ VNCH "hãy hạ nhiệt", chỉ hành động tối thiểu để tự vệ và để cứu vớt nạn nhân thôi, nhưng làm bất cứ những gì để tránh đụng độ với lực lượng Trung Quốc về mấy hòn đảo? Ông Kissinger đã quên rằng ông đã từng soạn thảo lá thư để TT Nixon gửi TT Thiệu ngay trước khi ký kết Hiệp Định Paris nói đến lập trường "Nền tự dovà độc lập của VNCH vẫn còn là mục tiêu tối cao của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ" (thư ngày 17 tháng 1, 1973).
Như vậy là ông Kissinger đã mở cửa Biển Đông cho TQ được tự do hoạt động từ lúc ấy. Trước đó, từ 1960 tới 1973, Trung Quốc chỉ cho tầu đi tuần tiễu vùng biển giữa đảo Hải Nam và Hoàng Sa trung bình khoảng 5 lần một năm.
Sau Hoàng Sa là vấn đề Trường Sa. Vào hè 1974 khi Tướng John Murray (chỉ huy cơ quan Quốc Phòng DAO ở Sàigòn) đề nghị VNCH nên tiết giảm ngân sách và rút đi hai chiến hạm bảo vệ Trường Sa, lý do là "vì không cần thiết: Hải quân của Bắc Việt không thể nào vào tới tận Trường Sa." Tiếp liệu cho hai chiến hạm này rất tốn phí: chưa kể tiếp liệu, nguyên xăng nhớt cũng đã tốn đến nửa triệu đôla một năm.
Tuy Tướng Murray cố vấn như vậy nhưng TT Thiệu nhất mực phản đối. Ông chỉ thị hai chiến hạm cứ tiếp tục thả neo ở đó. (TTTTT, trang 123-4). Ngày nay thì Hải Quân của Trung Quốc đã xuống tận Trường Sa và còn đang xây cả phi trường quân sự ngay tại đó, vì cửa vào Biển Đông đã được mở rộng từ 40 năm trước rồi - không những qua ngả Hoàng Sa mà còn qua ngả eo biển Đài Loan ở phía trên.
Qua eo biển Đài Loan
Sau khi Chủ tịch Mao Trạch Đông chiếm được Trung Hoa Lục Địa vào tháng 10, 1949, Hoa Kỳ nhất quyết bảo vệ độc lập của Đài Loan hay nước Trung Hoa Dân Quốc (The Republic of China), cũng một lý do là để chận Bắc kinh khỏi lấn chiếm Đông Nam Á (như việc nhảy vào Miền Nam). Bởi vậy mỗi lần Bắc Kinh đe dọa eo biển Đài Loan như vào năm 1954-1955 và 1958 thì Mỹ phản ứng rất mạnh (như đề cập trong Chương 28). Nhưng từ 1971 thì khác.
Hè 1971, Kissinger bí mật đi Bắc Kinh và trong dịp này đã cho Trung Quốc biết là Mỹ không còn ủng hộ một Đài Loan độc lập nữa, có nghĩa là Đài Loan sẽ chỉ là một khu vực của Trung Quốc, và như vậy Mỹ sẽ hết bảo vệ khu này và sẽ rút hạm đội ra khỏi nơi đây. Mời độc giả theo rõi đối thoại giữa hai ông Chu Ân Lai và Henry Kissinger:
Ngày 29 tháng 7, 1971:
- Thủ tướng Chu Ân Lai: "Thái độ của chính phủ Ngài như thế nào về cái gọi sư "Vận động cho Đài Loan Độc lập"?
- Cố vấn Kissinger: "Đài Loan? Không, không đâu, chúng tôi không ủng hộ phong trào ấy."
- Chu Ân Lai: "Ông thì nói là không nhưng còn những thành phần khác của Chính phủ Hoa Kỳ như CIA, Ngũ Giác Đài thì vẫn ủng hộ"?
- Kissinger: "Nhiều người trên thế giới hay phóng đại khả năng của CIA. Thí dụ như có hai nước ở Á Châu có cách mạng trong 10 năm qua, đó là Indonesia và Campuchia: ở cả hai thì chúng tôi đâu có CIA... nhưng thôi, tôi nghĩ cứ để cho CIA bị tiếng xấu như vậy thì cũng có lợi chút ít cho chúng tôi" (phía ông Chu phá ra cười).
- Chu Ân Lai: "Có phải điều Ngài vừa nói với tôi là: cả Chính phủ lẫn Tổng Thống Hoa Kỳ không ủng hộ bây giờ và sẽ không ủng hộ lập trường gọi là Đài Loan Độc lập."
- Kissinger: "...Trong một năm rưỡi nữa, chúng tôi không thể nào chính thức công nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là chính phủ duy nhất của Trung Quốc được (là vì nhân dân, Quốc Hội, và phần lớn Chính Phủ Mỹ còn ủng hộ Đài Loan lời tác giả), nhưng chúng tôi sẽ ngăn chận những yêu sách mới. Thí dụ như Phong trào Độc Lập Đài Loan là điều chống lại tiến trình mà Thủ Tướng và tôi đã thảo luận thì chính TT Nixon sẽ xác định lại với Chủ tịch Mao."
Tháng 8, 1971: Sau cuộc họp của Kissinger tại Bắc Kinh, Mỹ tuyên bố hủy bỏ việc chống Trung Quốc gia nhập Liên Hiệp Quốc. Tháng 10, Liên hiệp Quốc bỏ phiếu 76 thuận, 35 chống (và 17 không bỏ phiếu) việc đẩy Đài Loan ra khỏi Liên Hiệp Quốc và chấp nhận chính quyền Bắc Kinh là chính phủ đại diện Trung Quốc tại tổ chức này.
Tháng 10, 1971: Mỹ rút khu trục hạm của Đệ Thất Hạm Đội ra khỏi eo biển Đài Loan.
Tháng 2, 1972: TT Nixon thăm viếng Bắc Kinh. Sau cuộc họp Nixon - Mao tại Bắc Kinh, một thông cáo chung gọi là Thông Cáo Thượng Hải (Shanghai Communique) được tuyên bố, gián tiếp quy định "Việc Mỹ rút toàn bộ khỏi Đài Loan là mục tiêu cuối cùng," và sẽ "từng bước giảm cả quân đội, cả những căn cứ Mỹ tại Đài Loan khi sự căng thẳng trong vùng bớt đi." Những quy định khác bao gồm việc "Cả hai nước đều phải tránh việc áp đặt sự bá chủ của mình trong vùng Á Châu - Thái Bình Dương." Như vậy là Bắc Kinh hết lo ngại về Mỹ. Nhưng còn Liên Xô thì sao? Bắc Kinh cũng không còn phải e ngại vì sẽ có hậu thuẫn của Mỹ:" Mỗi nước sẽ chống lại việc bất cứ nước nào hay nhóm nước nào muốn bá chủ nơi này. "
Tháng 11, 1973: sau khi toàn bộ quân đội Mỹ đã rút khỏi Việt Nam và Đệ Thất Hạm Đội cũng đã ra thật xa, trong chuyến Kissinger đi Bắc Kinh, Thủ tướng Chu Ân Lai cự nự về việc có một tầu của Mỹ tên là Oklahoma City lại đi qua eo biển Đài Loan. Mời độc giả nghe ông Kissinger đã xin lỗi ông Chu tới mức nào:
- Ngoại trưởng Kissinger: "Tôi có một số trả lời cho những câu hỏi ngài đặt ra hôm qua ... Thứ nhất về chiến hạm Oklahoma City ...
- Thủ tướng Chu: "Bây giờ nó đã đi vào tới Hồng Kông rồi
- Ngoại trưởng Kissinger: "Đúng vậy. Tôi muốn nói rằng ít nhất cũng có một lần Ngài đã sai lầm khi nói với chúng tôi những chuyện này, nhưng Ngài đã nói đúng, và không có câu trả lời nào khác ngoài việc đây là thật ngu đần. Trước khi sang đây, chúng tôi đã cấm chỉ máy bay (của Mỹ) không được bay tới bất cứ chỗ nào gần Trung Quốc, nhưng chúng tôi đã quên không bao gồm cả tầu bè nữa. Bởi vậy tôi chỉ có thể xin lỗi ngài. Thật là bad taste . Nó là việc hợp pháp (vì tầu bè chưa bị cấm) nhưng ngu đần ("...but you were right and there is no answer except stupidity. Before coming here we had prohibited airplanes coming where any close to China, but we forgot to specify ships. So I can only apologize. It was bad taste. It was legal but stupid").
- Thủ tướng Chu: "Chính quyền Đài Loan đang quảng cáo việc này."
- Ngoại trưởng Kissinger (nói với ông Winston Lord): "Ta có thể tìm hiểu xem tại sao họ biết chuyện này không?"
- Thủ tướng Chu: "Chúng tôi biết được là qua chính quyền Đài Loan, chỉ sau khi họ nói về sự việc này thì chúng tôi mới biết. (có vẻ như trách móc? Lời tác giả).
- Ngoại trưởng Kissinger: "Tôi chỉ có thể nói rằng đây thật là ngu đần. Khả năng về sự ngu đần này là vô hạn. Tôi không thể nghĩ ra sự ngu đần mới nào mà người ta còn đang nghĩ tới."
Độc giả lưu ý là trong chỉ có vài câu mà ông Kissinger đã dùng chữ ngu đần (stupid) tới bốn lần để nói về việc tầu Mỹ Oklahoma đi vào eo biển đài Loan.
Trấn an Trung Quốc sau khi TT Nixon từ chức
Tháng 12, 1975: Sau khi TT Nixon phải từ chức (ngày 8 -8, 1974), Kissinger mau mắn trấn an Bắc Kinh là chính sách của Mỹ đối với Bắc Kinh thì không có gì thay đổi về lập trường đối với Đài Loan. Ông làm việc này bằng hành động: đó là sắp xếp để người kế vị TT Nixon là TT Ford đi Bắc Kinh gặp Chủ tịch Mao. Ông vẫn nhiều quyền hành vì tiếp tục giữ cả hai chức Ngoại Trưởng và Cố Vấn An Ninh của tổng thống. Cho nên ông dễ dàng sắp xếp để TT Ford vội vàng đi thăm viếng Bắc Kinh (đầu tháng 12, 1975) khi chỉ vừa nhậm chức được bốn tháng, "để bàn thêm về thỏa hiệp Trung Mỹ bao gồm việc Mỹ vẫn mở eo biển Đài Loan cho những hạm đội Đông Hải của TQ theo con đường nhanh nhất tràn xuống phía Nam."
Ngày 7 tháng 12, 1975: vừa từ Bắc Kinh về, TT Ford nói đến 'Học thuyết Thái Bình Dương (Pacific Doctrine) kêu gọi bình thường hóa toàn diện quan hệ với TQ và cộng tác kinh tế trong toàn thể Á Châu.
Dĩ nhiên, điều kiện để bình thường hóa toàn diện với TQ là Mỹ rút khỏi eo biển Đài Loan. Cuối tháng 5, 1975: chỉ một tháng sau khi Miền Nam sụp đổ, Hoa Kỳ rút phi đội chiến đấu cuối cùng ra khỏi Đài Loan. Có nghĩa là từ đó hạm đội Đông Hải của TQ có thể theo con đường nhanh nhất xuống phía Nam. Như vậy là hai cánh cửa vào Biển Đông - Hoàng Sa và eo biển Đài Loan - đều đã mở rộng. Tương lai của vùng này trở nên đen tối. Trung Quốc chỉ cần mua thời gian để chuẩn bị chờ cho tới đúng lúc mới ra tay (2014-2015).
Nguyễn Tiến Hưng
Hình trong bài viết:
1. Kissinger – Mao Trạch Đông – Chu Ân Lai đang ngã giá Hoàng Sa?
2. Kissinger – Chu Ân Lai ăn mừng ngã giá vụ bán biển ra sao?
3. Mật điện ngày 19 tháng 1, 1974: can ngăn TT Thiệu



Không có nhận xét nào