VIỆT CỘNG ĐÚT ĐẦU VÀO THÒNG LỌNG CỦA MỸ KHI ĐÃ TRẢ HẾT NỢ CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA Thấy bạn bè Facebook đưa tin từ Đài Tiếng nói Hoa Kỳ VOA hôm...
VIỆT CỘNG ĐÚT ĐẦU VÀO THÒNG LỌNG CỦA MỸ KHI ĐÃ TRẢ HẾT NỢ CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA
Thấy bạn bè Facebook đưa tin từ Đài Tiếng nói Hoa Kỳ VOA hôm 28/7/2020 và Trương Quốc Huy với nội dung "Chính phủ Hà Nội trả xong món nợ kế thừa từ Việt Nam Cộng Hòa". Nói thiệt, sau khi đọc thấy những bản tin này, cá nhơn tui cảm thấy vui mừng vô cùng bởi vì điều này đã khẳng định Việt Nam Cộng Hòa đang phục hồi mạnh mẽ và sau khi tổng thống Trump tuyên bố thắng cử vào ngày 03/11/2020 này thì sự phục hồi của Việt Nam Cộng Hòa trở nên rõ ràng, thực tế hơn. Sau đây tui xin phân tách ngắn gọn và đăng lại loạt bài đã viết vào tháng 9/2019 với tiêu đề "QUYỀN KẾ THỪA HỢP PHÁP LÀ KHÚC XƯƠNG ĐANG MẮC CỔ SONG CỘNG".
Năm 1994, Bill Clinton đã bãi bỏ hoàn toàn lịnh cấm vận Việt cộng và tới năm 1995 thì Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt cộng theo kịch bản của Tàu cộng vì sau khi Liên Sô chính thức sụp đổ vào năm 1991 thì Việt cộng đã hoàn toàn thần phục, lệ thuộc vào Tàu cộng theo mật ước Thành Đô năm 1990 với quyết tâm của chóp bu Việt cộng lúc bấy giờ là tên Mười Cúc - Nguyễn Văn Linh rằng "biết theo Tàu cộng là mất nước nhưng thà mất nước còn hơn mất đảng".
Để thuyết phục Quốc Hội Hoa Kỳ bãi bỏ lịnh cấm vận và bình thường hóa quan hệ với Việt cộng, chánh quyền Bill Clinton buộc phải "tính nợ" ở Việt Nam trước năm 1975 mà phía Việt Nam Cộng Hòa đã vay chánh phủ Hoa Kỳ trước đó để tái thiết đất nước, phát triển kinh tế cũng như việc buộc Việt cộng phải hoàn trả lại tài sản của công dân Hoa Kỳ ở Miền Nam do Việt cộng đánh cướp Miền Nam ngày 30/4/1975 và tiện tay cướp luôn của họ.
Lúc đầu phía Việt cộng không chịu trả tiền theo yêu cầu của Mỹ nhưng bị Tàu cộng ép phải nghe theo nên Việt cộng đã chấp nhận trả tiền cho Hoa Kỳ theo yêu cầu của Quốc Hội Hoa Kỳ.
Lý do mà Việt cộng không muốn trả tiền cho Hoa Kỳ là vì nếu nó trả thì nó đã mặc nhiên công nhận Việt Nam Cộng Hòa là một nhà nước hợp pháp, hợp theo các công ước quốc tế. Vì Việt Nam Cộng Hòa là một nhà nước hợp pháp nên những khoản vay nước ngoài, vay quốc tế để xây dựng đất nước sẽ vĩnh viễn không bị mất đi ngoại trừ đất nước đó biến mất trên quả địa cầu. Điều này nó tương tự như việc Mỹ có ý định đòi lại món nợ hơn 01 ngàn tỷ Mỹ kim do nhà Thanh phát hành công phiêu ghi nợ có lãi để xây dựng đường sắt và dù nhà Thanh đã mất đi nhưng đất nước Trung Hoa vẫn còn đó thì công dân và các thể chế tồn tại trên đất nước này phải có trách nhiệm trả nợ mà tiền nhơn đã vay để xây dựng đất nước.
Việc Việt cộng chấp nhận trả nợ mà Việt Nam Cộng Hòa đã vay để xây dựng đất nước đã khẳng định rằng Việt cộng công nhận Việt Nam Cộng Hòa là một nhà nước hợp pháp, hợp hiến, chánh danh, chánh nghĩa chớ không làm là ngụy quân, ngụy quyền, tay sai bán nước như mỏ chó tụi nó sủa suốt mấy chục năm nay.
Việt cộng thừa biết nếu nó chấp nhận trả nợ cho Hoa Kỳ thì nó đã chính thức công nhận Việt Nam Cộng Hòa là một nhà nước hợp pháp, hợp hiến, chánh danh, chánh nghĩa. Nhưng trong bối cảnh lúc đó buộc Việt cộng không còn sự lựa chọn nào khác bởi vì chỗ dựa của Việt cộng là Liên Sô đã tan thành mây khói buộc tội đồ Nguyễn Văn Linh phải quay lại liếm gót Tàu cộng với quan điểm "theo Tàu còn đảng, mất nước nhưng không theo Tàu thì mất đảng mà đảng là trên hết".
Đồng thời, phía Bill Clinton cũng nói với Việt cộng rằng Mỹ sẽ không bao giờ có ý định lật đổ Việt cộng vì nước Mỹ đang đi theo chủ thuyết "toàn cầu hóa, tất cả là bạn bè". Phía Tàu cộng thì làm công tác tư tưởng cho Việt cộng rằng "vài thập kỷ tới Tàu cộng sẽ thống trị thế giới thì lo gì bị Mỹ đưa Việt Nam Cộng Hòa trở lại để thay thế Việt cộng". Vậy là Việt cộng vui vẻ chấp nhận thay mặt Việt Nam Cộng Hòa trả nợ cho Mỹ phần tiền mà Việt Nam Cộng Hòa đã vay để tái thiết Miền Nam được Quốc Hội Mỹ chuẩn thuận.
Nếu mọi việc trơn tru như Bill Clinton và Tàu cộng và sau này là Obama và Tàu cộng toan tính thì không có việc gì xảy ra khiến cho Việt cộng và Tàu cộng bị rơi vào cảnh xương mắc họng khi Việt cộng trả nợ thay cho Việt Nam Cộng Hòa. Đằng này cục diện đã hoàn toàn thay đổi khi ông Trump lên làm tổng thống Hoa Kỳ với quyết tâm đánh sập Tàu cộng, xóa sổ chủ nghĩa xã hội quái thai thì khúc xương kế thừa lại đâm ngay trong cổ họng của Việt cộng và Tàu cộng mà khúc xương nhọn hoắt, cứng ngắt này chính là cái Hiệp định Ba Lê 1973.
Rất dễ hiểu, nếu Việt cộng không chấp nhận trả nợ thay cho Việt Nam Cộng Hòa vì theo nó Việt Nam Cộng Hòa đã bị nó xóa sổ sau khi xé bỏ Hiệp định Ba Lê 1973 thì Việt Nam Cộng Hòa theo quan điểm của Việt cộng là một thể chế không chánh danh, chánh nghĩa, là một nhà nước phi pháp nên không biết tính kế thừa hợp pháp. Ngược lại, vì Việt cộng đã chấp nhận trả nợ cho Hoa Kỳ phần nợ mà Việt Nam Cộng Hòa đã vay để xây dựng đất nước thì rõ ràng Việt Nam Cộng Hòa là một nhà nước hợp pháp, hợp hiến nhưng đã bị Việt cộng bức tử bằng hành vi cướp đoạt phi pháp, xé bỏ Hiệp định Ba Lê 1973.
Nói cách khác, khi Việt cộng đã chấp nhận trả nợ cho Hoa Kỳ phần tiền Việt Nam Cộng Hòa đã vay chánh phủ Hoa Kỳ để xây dựng đất nước thì rõ ràng Việt cộng đã công nhận Việt Nam Cộng Hòa là một nhà nước hợp pháp, hợp hiến đã được khẳng định tại Hiệp định Geneva 1954 và được kế thừa tại Hiệp định Ba Lê 1973. Miền Nam là của Việt Nam Cộng Hòa, Việt cộng dùng võ lực cướp Miền Nam, đuổi Việt Nam Cộng Hòa ra khỏi Miền Nam thì nợ nần của Miền Nam do Việt Nam Cộng Hòa đại diện đi vay để xây dựng Miền Nam dĩ nhiên Việt cộng phải trả thay và việc trả thay này đã chứng minh Việt cộng đã cướp Miền Nam một cách ngang ngược, phi pháp.
Việt Nam Cộng Hòa bị Việt cộng cướp mất Miền Nam thì Việt Nam Cộng Hòa có quyền đi kiện Việt cộng mà bằng chứng rõ ràng nhứt đó là cái Hiệp định Ba Lê 1973 với việc Việt cộng đã công khai công chính Việt Nam Cộng Hòa là nhà nước hợp pháp, hợp hiến ở Việt Nam bằng chứng là Việt cộng đã phải trả dứt nợ vay của Việt Nam Cộng Hòa.
Một hình tượng dễ hiểu hơn đó là dải đất hình chữ S của dân tộc Việt Nam do dân tộc Việt Nam làm chủ nhưng do bối cảnh lịch sử nên nó tạm chia ra 02 phần, Bắc phần do Việt cộng quản lý và Nam phần do Việt Nam Cộng Hòa quản lý. Vì thằng anh em xấu bụng ở Bắc phần muốn cướp luôn quyền quản lý của người anh em ở Nam phần nên nó đã xé bỏ cái giấy phân chia tài sản là cái Hiệp định Geneva 1954 được kế thừa tại Hiệp định Ba Lê 1973 để cướp nhà, đuổi người anh em Việt Nam Cộng Hòa ra khỏi nhà. Nhưng vì Việt Nam Cộng Hòa đã lấy tư cách là người quản lý Miền Nam để vay tiền Hoa Kỳ về xây dựng Miền Nam nên dù cho Miền Nam do ai quản lý sau này cũng đều có trách nhiệm phải trả nợ vì Việt Nam Cộng Hòa là chủ sở hữu hợp pháp Miền Nam.
Nhà tao tao đang ở hợp pháp, mày ỷ thế xua quân đuổi tao ra khỏi nhà vì đồng minh của mày lúc đó mạnh còn đồng minh của tao lúc đó còn nhiều viết phải lo nên bỏ tao một mình bị tụi mày đuổi đánh, cướp nhà. Nay giấy tờ quyền sở hữu nhà của tao còn đó và đồng minh của mày là Tàu cộng nay chính thức trở thành kẻ thù nguy hiểm của Hoa Kỳ và thế giới thì tao sẽ đi kiện mày để đòi lại những gì mày đã cướp của tao. Đòi chắc chắn sẽ được. Thằng nào mở miệng nói Việt Nam Cộng Hòa vĩnh viễn không phục hồi được thì nó chính là Việt cộng nằm vùng không sai chút nào cụ thể là cộng phỉ con Trương Quốc Huy và tên Trần Nhật Phong và nhiều kẻ khác nữa./.
Tran Hung.
1.QUYỀN KẾ THỪA HỢP PHÁP LÀ KHÚC XƯƠNG ĐANG MẮC CỔ SONG CỘNG
Phần I:
Những ngày qua chủ đề quyền kế thừa hợp pháp đã nóng lên bởi vụ tàu Hải Dương 8 của Tàu cộng 0 quần nát khu vực Bãi Tư Chính của Việt Nam nhưng Việt cộng không dám khởi đầu Tàu cộng và vụ các trái chủ Mỹ đang nắm giữ lượng công phiếu do nhà Thanh phát hành có giá trị ở hiện tại hơn ngàn tỷ USD đang đề nghị chánh quyền của tổng thống Donald Trump nghiên cứu đòi Tàu cộng phải trả. Và như đã hứa, hôm nay xin viết tiếp về này, bắt đầu từ khái niệm chánh danh - chánh nghĩa - kế thừa hợp pháp hay còn gọi là chánh chủ.
Nội dung xoay quanh chủ đề Tàu cộng và Việt cộng có phải là chủ thể kế thừa hợp pháp hay không? Ở đây xin nói riêng về Việt cộng còn Tàu cộng thì dùng phép suy ra. Hằng năm, cứ vào ngày 02/9 thì Việt cộng ra rả điệp khúc "bác hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sanh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nay là nước cộng hòa xhcn Việt Nam", luận điệu này là một thứ bùa mê, thuốc lú mê hoặc đại bộ phận người Việt Nam từ cùng đinh đến trí thức, biến họ trở thành những cái xác sống - zombie cuồng hồ, cuồng đảng mà quên đi Việt cộng thực chất không phải đại diện một nhà nước có tính chánh danh - chánh nghĩa - chánh chủ mà Việt cộng là một băng cướp đỉnh cao, cướp chánh quyền hợp pháp của Đế quốc Việt Nam do Bảo Đại làm Vua và Trần Trọng Kim làm Thủ tướng.
Giờ chúng ta ngược dòng sử lược để minh định đúng sai ngõ hầu thoát khỏi thứ bùa mê, thuốc lú của Việt cộng đã tiêm nhiễm vào đầu bao thế hệ người Việt Nam mình. Bắt đầu từ Hoàng đế Minh Mệnh, vị Hoàng đế thứ hai của triều đình nhà Nguyễn cai quản đất nước có quốc hiệu là Đại Nam, có quốc kỳ là Long Tinh Kỳ với cương vực rộng 575.000 km2, gấp 1,7 lần so với diện tích ngày nay.
Tại sao diện tích của Đại Nam rộng lớn đến như vậy ? Theo Đại Nam nhứt thống toàn đồ thì bản đồ nước Đại Nam thời Minh Mệnh ngoài chủ quyền từ Ải Nam Quan tới Mũi Cà Mau ra thì lãnh thổ của Đại Nam còn bao gồm cả các trấn ở Lào và vùng lãnh thổ Trấn Tây Thành nay là vùng lãnh thổ thuộc Đông Nam của Cambodia mà nhà Nguyễn chiếm được trong 6 năm, từ năm 1835 tới năm 1841 trước khi Hoàng đế Minh Mệnh băng hà.
Tuy nhiên theo dòng suy trầm của lịch sử, sau khi Hoàng đế Minh Mệnh băng hà, Hoàng đế Thiệu Trị nối ngôi. Người Chân Lạp dấy binh khởi loạn, Hoàng đế Thiệu Trị ra lịnh rút quân khỏi Trấn Tây Thành. Liên quân Xiêm La - Chân Lạp thừa cơ đánh phá biên giới Tây Nam, Hoàng đế Thiệu Trị sai nhiều tướng giỏi như Lê Văn Đức, Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn,... mang quân dẹp loạn. Quân Đại Nam đánh bại Xiêm La rồi truy kích vào đất Chân Lạp. Năm 1845, Đại Nam và Xiêm La ký hòa ước chia quyền bảo hộ Chân Lạp, vùng biên phía Tây cuối cùng đã được tạm yên, nhưng cũng từ đây quá trình mở cõi về phương Nam của người Việt bị khựng lại.
Tháng 3/1847, Augustin de Lapierre chỉ huy tàu Gloire cập bến Đà Nẵng, trình thư cho nhà Nguyễn nhưng bị từ chối. Sang ngày 15 /4/1847, tàu Pháp đụng độ với bốn tàu của triều đình Huế và đánh tan quân triều đình chỉ sau hai giờ giao tranh.
Ngày 08/11/1847, Hoàng đế Thiệu Trị băng hà ở tuổi 41, Hoàng đế Tự Đức nối ngôi. Sau khi đăng cơ, Hoàng đế Tự Đức phải đối diện với tình trạng hỗn mang cực độ bởi "giặc trong - giặc ngoài", các cuộc nổi loạn bùng phát khắp nơi, nhiều nhứt là xứ Bắc Kỳ với hơn 40 cuộc khởi loạn. Giặc ngoài là đám tàn quân của Thái Bình Thiên Quốc sau khi bị nhà Thanh đánh bại đã tràn sang các tỉnh biên giới phía Bắc dấy loạn, cướp bóc. Nhưng trên hết vẫn là quân Pháp.
Giữa tháng 9/1856, tàu Catinat do Lelieur chỉ huy ghé Đà Nẵng, trình quốc thư nhưng tiếp tục bị nhà Nguyễn từ chối.
Ngày 28/9/1856, phía Pháp cho tàu Catinat nã súng vào các pháo đài bảo vệ Đà Nẵng và cho quân đổ bộ đóng đinh vô hiệu hóa nhiều khẩu thần công của Đại Nam rồi bỏ đi. Giám mục Pellerin trốn được lên tàu về Pháp, thuật lại cho triều đình Pháp cảnh các giáo sỷ Công giáo bị đàn áp dã man ở Đại Nam. Sau đó Pellerin cùng Hoàng hậu Eugénie xin Hoàng đế Napoléon III thảo phạt Đại Nam và được Hoàng đế Napoléon III chuẩn tấu.
Năm 1858, Trung tướng người Pháp là Charles Rigault de Gennouilly chỉ huy đoàn chiến thuyền gồm 14 chiếc có sự tham gia của tàu chiến Tây Ban Nha tiến vào cửa biển Đà Nẵng bắn phá rồi hạ thành An Hải và Tôn Hải. Tuy nhiên do trên bờ đang có bịnh dịch tả, kiết lỵ và người Pháp và Tây Ban Nha chưa thích nghi với khí hậu nhiệt đới nên họ sợ mắc phải các chứng bệnh nhiệt đới khác, cũng như điều kiện thủy mạo ở các nhánh sông ở miệt Huế, Đà Nẵng không cho phép tàu chiến phương Tây vào sâu trong đất liền tấn công quân binh Đại Nam bằng chiến thuật thủy bộ kết hợp.
Vì vậy sau một thời gian thả neo ở cửa biển Đà Nẵng, Trung tướng Rigault de Genouilly đổi ý sang đánh Gia Định Thành. Đầu năm 1859, Trung tướng Rigault de Genouilly dẫn quân Pháp và Tây Ban Nha vào cửa Cần Giờ đánh thành Gia Định. Chỉ trong 2 ngày thì thành vỡ, quan Hộ đốc Võ Duy Ninh tuẫn tiết. Hạ xong Thành Gia Định, Trung tướng Rigault de Genouilly đốc quân trở ngược lại Đà Nẵng đánh đồn Phúc Ninh, quân của Nguyễn Tri Phương thua phải rút về giữ đồn Nại Hiên và Liên Trì.
Sau đó Rigault de Genouilly bị bịnh phải về nước, Thiếu tướng Page sang thay. Thiếu tướng Page đề nghị việc giảng hòa, chỉ xin được tự do giảng đạo Công giáo và được buôn bán với Đại Nam nhưng triều đình nhà Nguyễn không đồng ý. Đến năm 1862, quân Pháp chiếm Biên Hòa, Vĩnh Long, nhà Nguyễn phái Phan Thanh Giản làm chánh sứ và Lâm Duy Thiệp làm phó sứ vào Nam giảng hòa với Pháp. Ngày 05/6/1862 một Hòa ước được lập tại Gia Định nay là Sài Gòn giữa đại diện nhà Nguyễn với đại diện của Pháp là thiếu tướng Bonard và đại diện của Tây Ban Nha là đại tá Don Carlos Palanca Guttiere. Hòa ước này gồm 12 khoản còn gọi là Hòa ước Nhâm Tuất 1862. Đây là một hiệp ước bất bình đẳng từ nửa đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 trong lịch sử Việt Nam giữa Đại Nam Nam và Đế quốc Pháp. Theo đó Đại Nam phải nhượng lại vùng lãnh thổ Nam Kỳ gồm Biên Hòa, Gia Định, và Định Tường lại cho Pháp.
Từ cuối năm 1872, Pháp cho lái buôn Jean Dupuis vào gây rối ở Hà Nội. Tiếp đó, lấy cớ giải quyết vụ Jean Dupuis, hơn 200 quân Pháp do Garnier chỉ huy từ Gia Định kéo ra Bắc Kỳ. Sáng ngày 20/12/1873, quân Pháp nổ súng đánh thành Hà Nội, 7000 quân triều đình Nhà Nguyễn dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, cố gắng cản giặc nhưng thất bại. Buổi trưa, thành mất. Nguyễn Tri Phương bị thương. Bị giặc bắt, ông nhịn ăn mà chết. Trong vòng chưa đầy một tháng, Pháp cho quân tỏa đi chiếm Hải Dương, Hưng Yên, Phủ Lý, Ninh Bình, Nam Định. Sau đó, vào ngày 15/3/1874, nhà Nguyễn đã ký Hiệp ước Giáp Tuất 1874. Theo đó, Pháp sẽ rút quân khỏi Bắc Kỳ, triều đình Nhà Nguyễn phải chính thức thừa nhận Nam Kỳ Lục tỉnh hoàn toàn thuộc Pháp.
Mặc dù Hiệp ước Giáp Tuất 1874 cho phép tàu thuyền Pháp đi thám hiểm các dòng sông, nhưng tới những năm đầu 1880 quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc tếp tục quấy nhiễu và cản trở các thương gia Pháp buộc chánh quyền Pháp phái một lực lượng viễn chinh nhỏ với nhiệm vụ quét sạch Cờ Đen ra khỏi vùng đồng bằng Sông Hồng. Dưới sự chỉ huy của đại tá Henry Rivière, ngày 25/4/1882 Pháp chiếm thành Hà Nội. Sau các vòng thương thuyết bất thành bởi đại tá Henri Rivière yêu sách nhà Nguyễn phải chấp nhận quyền bảo hộ của Pháp, phải trao thành Hà Nội cho Pháp quản lý, đặt thương chánh tại Bắc Kỳ và giao cho Pháp cai quản.
Nhà Nguyễn bèn cử Lại bộ Thượng thơ Phạm Thận Duật sang Thiên Tân cầu cứu nhà Thanh. Tổng Đốc Lưỡng Quảng là Trương Thụ Thanh làm mật sớ về tâu với vua nhà Thanh, được vua Thanh chuẩn tấu nên quân Thanh nhân cơ hội này tiến vào Bắc Kỳ.
Tháng 11/1882, Đại sứ Pháp Bourée tại triều Thanh tiến hành một cuộc gặp mặt với Phó vương Trực Lệ Lý Hồng Chương trong đó hai bên tính đến khả năng nhượng vùng Lào Cai cho nhà Thanh để lập một cửa khẩu vào Vân Nam, đồng thời thiết lập một đường phân giới dọc theo sông Hồng, theo đó phần phía Bắc sẽ thuộc về nhà Thanh, phần phía Nam sẽ do Pháp quản lý. Lý Hồng Chương đồng ý với thỏa thuận đạt được này, và chuyển thỏa thuận về Đổng lý Nha môn nhà Thanh để phê chuẩn. Tuy nhiên chánh phủ của Thủ tướng Jules Ferry không đồng ý phê chuẩn hiệp nghị này và triệu hồi Đại sứ Bourée về nước.
Quân đội Vân Nam và Lưỡng Quảng được điều động tiến sát về biên giới, sẵn sàng vượt biên giới tiến sang Bắc kỳ. Nhà Thanh cũng hạ lệnh cho hải đội Quảng Đông, gồm 20 thuyền tiến vào hải phận của Việt Nam để thị uy. Tới ngày 17/6/1882, quân Thanh từ Vân Nam do Tạ Kính Bưu, Đường Cảnh Tùng chỉ huy vượt biên giới tràn sang Bắc Việt, đóng ở Bắc Ninh và Sơn Tây có quan bố chính Quảng Tây là Từ Diên Húc đem quân sang tiếp ứng, phối hợp với các lực lượng tiền tiêu đã đồn trú tại Bắc Việt từ tháng 8/1881 để hỗ trợ cho quân Nhà Nguyễn của Hoàng Kế Viêm và quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc.
Ngày 25/8/1883, Hòa ước Quý Mùi 1883 hay còn có tên gọi là Hòa ước Harmand được ký kết tại kinh đô Huế giữa đại diện của Pháp là Francois Jules Harmand là Tổng ủy đại diện ngoại giao cho nước Cộng hoà Pháp và đại điện của nhà Nguyễn là Hiệp biện Đại học sỹ Trần Đình Túc làm chánh sứ, Thượng thơ Bộ lại Nguyễn Trọng Hợp làm phó sứ. Hoà ước có tất cả 27 điều khoản với nội dung chính là xác lập quyền bảo hộ lâu dài của Pháp trên toàn bộ Đại Nam. Hiệp ước này chính thức đánh dấu thời kỳ, 1883-1945, toàn bộ Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp hay còn gọi là thời Pháp thuộc.
Trải qua nhiều cuộc giao tranh giữa quân viễn chinh Pháp với quân dân nhà Nguyễn ở Bắc Kỳ kết hợp với quân cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc và quân nhà Thanh. Quân Pháp đã bị đánh bại ở trận Ải Nam Quan hay còn gọi là Trấn Nam Quan nhưng khi rút về Lạng Sơn đã đánh bại quân Thanh ở trận Kỳ Lừa. Tuy nhiên trong khi giao chiến, viên chỉ huy Pháp bị thương, và người thay thế ông ta, có lẽ bị hoảng hốt, vội vã hạ lệnh bỏ Lạng Sơn vào ngày 28/3/1885. Lữ đoàn rút chạy hỗn loạn về vùng châu thổ sông Hồng, mất hết các chiến quả thu được trong chiến dịch năm 1885, khiến cho chỉ huy quân viễn chinh Pháp, Henri Briere de l'Isle, tưởng là tình hình vùng trung châu đã trở nên hết sức nguy kich. Ông ta đánh điện báo về Paris, và hậu quả là chánh phủ của thủ tướng Jules Ferry sụp đổ.
Vài ngày sau đó, Briere de l'Isle nhận ra là tình hình không đến nỗi xấu như ông ta tưởng, tuy nhiên Nội các mới lên thay ở Pháp đã quyết định chấm dứt chiến tranh.
Trận thua này, mà người Pháp gọi là "Sự kiện Bắc kỳ", là một scandal chánh trị lớn của lực lượng viễn chinh Pháp. Mặc dù quân Pháp phải rút khỏi Lạng Sơn, nhưng xét về toàn cục thì quân Pháp vẫn chiếm ưu thế, cộng với các chiến thắng trên biển, khiến cho Lý Hồng Chương phải ký một hiệp ước gây nhiều tranh cãi dưới đây.
Ngày 11/5/1884, Pháp và nhà Thanh đã ký Thỏa thuận Thiên Tân còn gọi là Thỏa thuận Lý - Fournier, tiếng Pháp là Accord de Tientsin. Thỏa thuận này được ký giữa đại diện Pháp là François-Ernest Fournier với đại diện nhà Thanh là Lý Hồng Chương. Mục đích là nhằm giải quyết cuộc chiến tranh không tuyên bố giữa Pháp và Nhà Thanh, tức chiến tranh Pháp - Thanh về chủ quyền ở xứ Bắc Kỳ của Đại Nam. Hai bên đã thương lượng cho một cuộc rút quân của quân đội nhà Thanh ra khỏi Bắc Kỳ để đổi lấy một hiệp ước toàn diện nhằm giải quyết các chi tiết về thương mại giữa Pháp và nhà Thanh và cung cấp cơ sở để phân chia biên giới đang tranh chấp giữa Đại Thanh với Đại Nam. Công ước này là thỏa thuận đầu tiên kể từ khi chiến tranh Pháp - Thanh nổ ra và là cơ sở để Pháp và nhà Thanh ký Hòa ước Thiên Tân (1885) chấm dứt Chiến tranh Pháp - Thanh.
Ngày 06/6/1884, tại kinh đô Huế, đại diện đại diện Hoàng đế An Nam là Nhiếp chính Nguyễn Văn Tường, đệ nhứt phụ chính đại thần, Lại bộ Thượng thơ Phạm Thận Duật, Hộ bộ Thượng thư và Tôn Thất Phán, phụ trách ngoại giao, quyền Công bộ Thượng thư cùng một đại diện của Pháp quốc là Sứ thần Cộng hoà Pháp Jules Patenôtre đã ký Hòa ước Giáp Thân 1884 hay còn có tên là Hòa ước Patenôtre, là hòa ước cuối cùng nhà Nguyễn ý với Pháp. Hòa ước Patenôtre gồm có 19 điều khoản. Ở Điều 1 là "Nước An Nam thừa nhận và chấp thuận nền bảo hộ của nước Pháp - Nước Pháp sẽ đại diện cho nước An Nam trên mọi quan hệ ngoại giao - Những người dân An Nam nằm ở nước ngoài đều đặt dưới quyền bảo hộ của nước Pháp".
Căn cứ trên Thỏa thuận Thiên Tân 1884, ngày 09/6/1885 đại diện Pháp và Đại Thanh đã ký kết Hiệp ước Thiên Tân 1885 gồm 10 điều khoản. Theo Hòa ước này Pháp - Thanh sẽ chấm dứt chiến tranh, quân Thanh phải rút khỏi Bắc Kỳ và công nhận nền bảo hộ của Pháp với Đại Nam. Cũng theo đó thì Hòa ước này chấm dứt lệ triều cống của nhà Nguyễn với địa vị phiên quốc đối với nhà Thanh.
Kể từ đó, nước Đại Nam đã hoàn toàn đặt dưới sự bảo hộ của Pháp, cụ thể vào ngày 17/10/1887, Liên bang Đông Dương được chính thức thành lập theo Sắc lệnh của Tổng thống Cộng hoà Pháp với bốn thuộc địa là Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và Cambodia; đến ăn! 1893 có thêm Lào và năm 1900 có thêm Quảng Châu Loan là là một vùng đất ở miền Nam Trung Hoa, ven bờ đông bán đảo Lôi Châu thuộc tỉnh Quảng Đông. Thủ phủ của Đông Dương ban đầu đặt tại Sài Gòn, sau chuyển ra Hà Nội năm 1902.
Việt Nam sau đó lại Nhựt Bổn chiếm đóng trong Đệ Nhị Thế chiến. Sáng ngày 11/3/1945, Hoàng đế Bảo Đại đã ra Tuyên cáo Độc lập, tuyên bố xóa bỏ Hiệp ước Patenôtre nhằm xóa bỏ triệt để thế lực của Pháp ở Đông Dương và thành lập nhà nước có quốc hiệu Đế Quốc Việt Nam vào ngày 07/4/1945 với Thủ tướng Chánh phủ là ông Trần Trọng Kim và vua của Đế Quốc Việt Nam là Bảo Đại.
Tuy nhiên sau 5 tháng tồn tại thì Nhựt Bổn bị Đồng Minh đánh bại. Lợi dụng tình hình rối ren, hồ chí minh đã cầm đầu Việt minh cướp lấy chánh quyền của thủ tướng Trần Trọng Kim và ép vua Bảo Đại thoái vị. Một cuộc phân qua, ly loạn mới tiếp diễn. Dân tộc Việt Nam bị xô đẩy vào cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt, chất ngất hận thù cho đến tận hôm nay mà lý do chính đó là tính không chánh danh - chánh nghĩa của Việt cộng. Sẽ viết tiếp theo./.
Tran Hung.
2.QUYỀN KẾ THỪA HỢP PHÁP LÀ KHÚC XƯƠNG ĐANG MẮC CỔ SONG CỘNG
PHẦN II:
Chiều ngày 10/3/1945, quân Pháp ở Đông Dương đã đầu hàng Nhựt Bổn, quân Nhựt Bổn làm chủ các vùng đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn và nhiều tỉnh lỵ khác. Toàn bộ Đông Dương đã trở thành thuộc quyền kiểm soát của Nhựt Bổn. Kết quả ở Bán đảo Đông Dương lúc bấy giờ là:
- Sự cai trị của chánh phủ Vichy tại Đông Dương bị xóa bỏ;
- Sáng ngày 11/3/1945, Hoàng đế Bảo Đại đã ra Tuyên cáo Độc lập, tuyên bố xóa bỏ Hiệp ước Patenôtre nhằm xóa bỏ triệt để thế lực của Pháp ở Đông Dương và sau đó, vào ngày 07/4/1945 đã thành lập nhà nước có quốc hiệu Đế Quốc Việt Nam với Vua là Bảo Đại và Thủ tướng Chánh phủ là ông Trần Trọng Kim;
- Tái lập Vương quốc Cambodia và tái lập Vương quốc Lào.
Ngay chỗ này cho thấy Đế Quốc Việt Nam là một nhà nước chánh danh, chánh nghĩa, chánh chủ, hay nói cách khác Đế Quốc Việt Nam là nhà nước "kế thừa hợp pháp" từ nhà nước Đại Nam của Hoàng triều nhà Nguyễn, được Nhựt Bổn lấy lại từ tay Pháp quốc rồi trao trả lại cho Vua Bảo Đại và thủ tướng Trần Trọng Kim. Vương quốc Cambodia và Vương quốc Lào cũng tương tự.
Tháng 6/1945, chánh phủ Đế Quốc Việt Nam đặt quốc thiều là bài Đăng đàn cung, quốc ca là bài hát Việt Nam minh châu trời đông của nhạc sĩ Hùng Lân, quốc kỳ có "nền vàng hình chữ nhựt, giữa có hình quẻ Ly màu đỏ thẫm. Trong thời gian ngắn ngủi chấp chánh, chánh phủ của Đế Quốc Việt Nam đã làm được một việc quan trọng nhứt là vào ngày 20/7/1945 đã thu hồi ba nhượng địa cũ là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng vốn bị người Pháp chia cắt và áp dụng quy chế trực trị và ngày 08/8/1945 đã thống nhứt xứ Nam Kỳ vốn trước đây đã bị Pháp ép nhà Nguyễn tại Hiệp ước Giáp Tuất 1874 ký ngày 15/3/1874 giao toàn bộ Nam Kỳ Lục tỉnh cho Pháp quốc.
Tuy nhiên, sai lầm của Đế Quốc Việt Nam là thành viên trong nội các Trần Trọng Kim đều là trí thức và thanh liêm, chỉ tập trung vào việc cải cách hành chánh, cải tổ và thống nhứt Luật pháp, soạn thảo Hiến pháp, bãi bỏ thuế thân cho những ai không có tài sản và những người có tiền lương dưới 100 đồng/tháng,... nên chểnh mảng việc thành lập quân đội và lực lượng bảo vệ chánh quyền. Thêm nữa, việc vua Bảo Đại vào ngày 03/6/1945 đã ra dụ số 67 chánh thức bỏ tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính và cho áp dụng chương trình giáo dục của giáo sư Hoàng Xuân Hãn với kết quả là đợt thi Tú Tài đầu tiên bằng tiếng Việt là vào niên học 1944 - 1945 đã làm cho giới quan lại, học sỹ thời Pháp thuộc bất mãn vì họ cam giác bị cho ra rìa.
Bởi vì với tổng số trường học trên toàn quốc thời đó gồm có 4.952 trường tiểu học với khoảng 284.341 học sinh, thi bằng tiểu học; 25 trường cao đẳng tiểu học với khoảng 2.000 học sính, thi bằng cao đẳng và 4 trường trung học với khoảng 500 học sinh, thi bằng tú tài bấy lâu nay dùng tiếng Pháp để giảng dạy nay đổi qua dùng tiếng Việt là một cú sốc lớn đối với trí thức, quan lại thân Pháp. Tiếng Việt cũng được dùng làm ngôn ngữ hành chính, dùng ghi chép các giấy tờ, sổ sách.
Sự sai lầm rất đáng trân trọng của Đế Quốc Việt Nam đó là "văn minh, nhơn đạo" không hợp thời bởi trước thực trạng dân trí Việt Nam lúc bấy giờ rất thấp, tầng lớp trí thức, tinh hoa đa phần đều "hoài Pháp, cảm Pháp, cảm Pháp" mà đùng một cái thủ tướng Trần Trọng Kim lại chuyển tông sang Việt hóa toàn bộ nên không ít văn thân, chí sỹ "hoài Pháp, cảm Pháp, nhiễm Pháp" đã quay lưng vì nước sông không pha lẫn nước giếng đặng.
Trong lúc này, Việt minh với nghệ thuật tuyên truyền bịp bợm, dẻo miệng, biết kích vào những chỗ mà dân Việt Nam thích như kiểu mang mắm tôm ra hong ở đầu gió nên khối người tin và theo. Chúng tuyên truyền bịp bợm với vu cáo chánh phủ của thủ tướng Trần Trọng Kim là chánh phủ bù nhìn do Nhựt Bổn dựng lên. Thâm độc hơn là lợi dụng lúc binh biến của Đệ nhị thế chiến và mất mùa ở đồng bằng Bắc Bộ, Việt minh đã chận đánh và cướp bóc số gạo do chánh phủ Trần Trọng Kim chuyển từ Nam ra Bắc cứu đói đem đi cất giấu, Việt minh tập kích, đốt kho lương của quân Nhựt và của Đế Quốc Việt Nam rồi tri hô Nhựt Bổn đốt kho lương, Nhựt Bổn dùng lúa để đốt vận hành các đầu máy hơi nước,... Kết cục là gây ra nạn đói kinh hoàng ở miền Bắc gọi là nạn đói năm Ất Dậu 1945 làm cho gần 2 triệu người chết đói, hàng triệu người phải tình nguyện theo Việt minh, hàng triệu người phải bỏ nhà cửa đi lang bạt kiếm ăn, nhiều vùng nông thôn tại miền Bắc Việt Nam trở nên xơ xác, tiêu điều.
Để rồi khi Đồng minh phản công Nhựt Bổn theo Tuyên bố Cairo là kết quả của Hội nghị Cairo diễn ra tại Cairo, Ai Cập vào ngày 27/11/1943 với sự hiện diện của Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt, thủ tướng Anh Winston Churchill và tổng tư lệnh Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch với nội dung chính được trích dẫn ở Khoản 8 của Tuyên bố Potsdam ngày 26/7/1945, đơn cử :
- Nếu Nhựt Bổn không chịu đầu hàng thì "họ có thể phải đối mặt với sự hủy diệt ngay lập tức và toàn bộ". Bản tuyên bố này cũng đã hàm ý nhắm tới việc sử dụng bom nguyên tử để cống lại Nhựt Bổn.
- Tuyên bố thông báo rằng toàn bộ lực lượng quân sự của Mỹ, Anh quốc, Liên Sô và Trung Hoa Dân quốc có thể đánh đòn cuối cùng đối với Nhựt Bổn. Tương tự như đối với Đức, lực lượng Đồng minh có thể dẫn tới "sự hủy diệt hoàn toàn và chắc chắn các lực lượng quân sự Nhựt Bổn và sự tàn phá toàn bộ một cách chắc chắn đất nước Nhựt" nếu như Nhựt Bổn không kết thúc chiến tranh.
Sau khi tuyên bố Postdam được phát đi, ngày 06/8/1945 quả bom nguyên tử mang tên "Little Boy - Thằng Nhỏ" đã được Mỹ thả xuống thành phố Hiroshima. Ba ngày sau, vào ngày 09/8/1945 quả bom nguyên tử thứ hai có tên "Fat Man - Thằng Ú" đã được Mỹ thả xuống thành phố Nagasaki. Kết cuộc, ngày 16/8/1945 Nhựt Bổn ra tuyên bố đầu hàng Đồng Minh. Thế giới biết đến ngày trọng đại mồng Hai Tháng Chín Năm Một Ngàn Chín Trăm Bốn Mươi Lăm - 02/9/1945 là ngày quân đội Nhựt Bổn ký VĂN KIỆN ĐẦU HÀNG ĐỒNG MINH trên chiến hạm Missouri của Hải quân Mỹ đang thả neo ở Vịnh Tokyo. Đệ nhị Thế chiến chánh thức chấm dứt, trên danh nghĩa cũng như trên trận địa.
Tuy nhiên, thế giới không chú tâm tới dải đất hình chữ S, nơi sắp diễn ra những ngày tháng đau thương triền miên khói lửa, chất ngất hận thù mà như ông Nguyễn Trãi đã từng nói trong Bình Ngô Đại Cáo cách đó hàng trăm năm đó là "Nhân họ Hồ chánh sự phiền hà. Để trong nước lòng dân oán hận. Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa. Bọn gian tà bán nước cầu vinh" - cũng tại "dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế" - để rồi "gây binh chuốc oán trải hai mươi năm".
Sự thể đau lòng đó là hồ chí minh đã cầm đầu đám du thủ du thực Việt minh tràn về cướp chánh quyền của Vua Bảo Đại và chánh phủ của thủ tướng Trần Trọng Kim nhưng chúng lại ngoa ngôn rằng: Chỉ thị “Nhựt - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” là văn kiện quan trọng của đảng thể hiện tầm nhìn chiến lược, xuyên suốt giai đoạn tiền khởi nghĩa nên có giá trị lịch sử đặc biệt... Đúng là Việt cộng nói láo ngay từ lúc phôi thai, nói xạo ngay từ lúc ra đời mà nói láo đến ngàn đời.
Như đã nói ở trên, vào 4 giờ chiều ngày 09/3/1945, đại diện của Nhựt Bổn tới Phủ Toàn quyền của Pháp ở Sài Gòn thảo luận và chuẩn bị văn kiện về việc Pháp cung cấp gạo cho Nhật trong năm 1945. Tới 6 giờ tối cùng ngày, đại diện Nhựt Bổn trao tối hậu thư đòi chánh quyền Pháp phải trao toàn bộ quyền kiểm soát Đông Dương cho Nhựt và Pháp phải trả lời trước 09 giờ cùng ngày. Nhưng tới 9 giờ 20 phút ngày hôm đó là ngày 09/3/1945 Pháp chưa chịu trả lời thì Nhựt nổ súng tấn công Pháp. Phía Pháp không có bất kỳ sự kháng cự nào, quân Nhựt nhanh chóng chiếm được Phủ Toàn quyền, giam giữ Toàn quyền Đông Dương và hầu hết các quan chức cao cấp của Pháp. Đến chiều ngày 10/3, quân Pháp đầu hàng, Nhựt Bổn làm chủ các vùng đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Sài Gòn và nhiều tỉnh lỵ,…
Những đơn vị quân Pháp còn cố thủ ở Cà Mau, Biển Hồ bên Cambodia, một số vùng ở Bắc Đông Dương cũng lần lượt bị thất thủ, chỉ còn một số tàn quân chạy qua biên giới Việt - Trung. Với sự kiện này, lực lượng quân sự Pháp hoàn toàn tan rã, bộ máy thống trị của thực dân Pháp đầu hàng, bị cầm tù hoặc được Nhựt Bổn lưu dụng. Trên thực tế, toàn bộ Đông Dương đã không còn quân Pháp hiện diện.
Vậy thì lấy đâu ra việc gọi là "Nhựt - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ? Tiếp đến, Việt cộng còn nổ vang trời rằng "Nắm thời cơ cách mạng, Hội nghị toàn quốc của đảng họp ở Tân Trào (13 đến 15/8/1945) đã kêu gọi toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành chánh quyền trong cả nước. Ngày 16/8/1945, cũng tại Tân Trào, Đại hội quốc dân được triệu tập, tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của đảng, bầu ủy ban dân tộc giải phóng, do đồng chí hồ chí minh làm chủ tịch. Ngay sau đó, chủ tịch hồ chí minh gửi thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa đến đồng bào cả nước: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm. Tiến lên!".
Rồi Việt cộng lại điếm miệng "Đáp lời kêu gọi thiêng liêng của đảng, của chủ tịch hồ chí minh, 25 triệu đồng bào cả nước, với tinh thần "đem sức ta mà giải phóng cho ta", đã nhất tề vùng lên cướp chánh quyền trong 15 ngày (từ 13 đến 28/8/1945), chấm dứt sự thống trị gần trăm năm của thực dân và ngàn năm của phong kiến, thiết lập nền dân chủ cộng hoà. Dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi này còn góp phần cùng nhân dân thế giới trong cuộc đấu tranh chống phátxít vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội".
Việt cộng nói láo không chớp mắt, ngày 16/8/1945 Nhựt Bổn đã đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Phía Đồng minh đang tiến hành giải giới cho quân Nhựt ở Đông Dương theo sự phân công từ vỹ tuyến 16 trở vào do quân đội Anh quốc thực thi, từ vỹ tuyến 16 trở ra do quân cờ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch thực thi. Như vậy thì việc gì Việt minh phải vùng lên cướp chánh quyền trong 15 ngày (từ 13 đến 28/8/1945) ?
Nói láo nó có tác dụng giống như thuốc Ampicillin với vết thương vậy, nếu chỉ muốn vết thương mau kéo da non thì cứ rắc thuốc bột Ampicillin 5000 mg lên vết thương, bảo đảm vết thương sẽ héo miệng, kéo da non ngay nhưng đừng tưởng bở nó đã lành hẳn bởi sau đó nó sẽ lình xình ương mủ ở bên trong lúc đó khổ to. Việt cộng nói láo cũng vậy. Dám hô hào cướp chánh quyền gọi là cách mạng tháng 8, dám tự sướng lấy ngày Nhựt Bổn ký văn kiện đầu hàng Đồng minh để khai sanh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Dám hênh hoang "chấm dứt sự thống trị gần trăm năm của thực dân và ngàn năm của phong kiến, thiết lập nền dân chủ cộng hoà",...
Chết là ở chỗ này, cứ tha thuốc Ampicillin 500 mg lên vết thương giờ tới thời kỳ nó mưng mủ rồi đó. Rõ ràng Việt cộng không có "chánh danh - chánh nghĩa - chánh chủ" gì hết. Bởi Việt cộng đâu có được kế thừa hợp pháp theo luật thừa kế quốc gia. Rõ ràng Việt cộng cướp chánh quyền của Đế Quốc Việt Nam nhơn lúc thế giới đang tập trung vào việc Nhựt Bổn đầu hàng và quân Đồng minh chưa kịp giải giới cho quân Nhựt ở Đông Dương.
Việt cộng không có quyền kế thừa hợp pháp thì dĩ nhiên nó đâu có quyền bảo vệ đất nước Việt Nam, giữ vững chủ quyền ở Biển Đông và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Vì vậy dẫu cho Tàu cộng có nuốt trọn Biển Đông phần thuộc chủ quyền của Việt Nam và nuốt luôn Việt Nam thì Việt cộng cũng sẽ không kêu gọi ai ra tay giúp được cả bởi vì Việt cộng là một tổ chức ăn cướp, một nhà nước phi pháp chỉ được quốc kỳ thừa nhận trên phương diện ngoại giao chớ không phải công nhận trên phương diện quốc gia kế thừa hợp pháp.
Sẽ viết tiếp với việc liên kết với Công pháp, Điều ước quốc tế./.
Tran Hung.
3.QUYỀN KẾ THỪA HỢP PHÁP LÀ KHÚC XƯƠNG ĐANG MẮC CỔ SONG CỘNG
PHẦN III:
Lợi dụng quân Nhựt đầu hàng đồng minh, hồ chí minh lãnh đạo Việt minh cướp chánh quyền của Đế Quốc Việt Nam do Bảo Đại làm vua và Lệ Thần Trần Trọng Kim làm thủ tướng.
Cụ thể, ngày 16/8/1945 Nhựt Bổn đã đầu hàng Đồng minh vô điều kiện thì hôm sau, ngày 17/8, Việt minh đã kích động, xúi giục dân Hà Nội hạ cờ quẻ Ly xuống và treo cờ Phúc Kiến lên, đồng thời đã cướp luôn cuộc mít tinh của Tổng hội Công chức Đông Dương ủng hộ vua Bảo Đại thành cuộc tuần hành ủng hộ Việt Minh. Hai ngày sau, Việt minh giả dạng thường dân chiếm dinh Khâm sai Bắc bộ, thành lập chánh quyền cách mạng. Sau đó Việt minh kích động, xúi giục dân chúng khắp nước nổi loạn.
Để hợp pháp hóa việc cướp chánh quyền của Đế Quốc Việt Nam được trọn vẹn và giảm thiểu sự phản công từ các hoàng thân của triều Nguyễn cũng như các chí sỹ trong chánh phủ Đế Quốc Việt Nam, hồ chí minh đã lịnh cho một đám du thủ, du thực do tay phịa chuyện Lê Văn Tám đốt kho xăng Thị Nghè năm 1946 là Trần Huy Liệu cùng với tay nhà thơ cha của tay luật sư Cù Huy Hà Vũ đang nằm vùng ở Mỹ là Cù Huy Cận truy tìm và cưỡng ép vua Bảo Đại thoái vị.
Đứng trước một đám "thằng nách thước, đứa tay đao. Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi", để bảo toàn tánh mạng của mình cũng như Hoàng tộc và con dân Đế Quốc Việt Nam, buộc vua Bảo Đại phải nén lòng ký và đọc bản Chiếu thoái vị vào ngày 25/8/1945, chính thức chấm dứt nhà Nguyễn và chế độ Quân chủ lập hiến ở Việt Nam. Dĩ nhiên câu chữ trong bản chiếu thoái vị do Việt minh viết ra, tuy nhiên vua Bảo Đại cũng đã sửa lại nhiều điểm mà Ông cho sự nó bất hợp lý nhưng cũng chỉ được chỉnh được trong giới hạn cho phép của Việt minh.
Vì vậy, chúng tui mới có hai bản chiếu thoái vị, một bản do Việt minh công bố, lưu hành và một bản được Nguyễn Phước Tộc lưu giữ và sau này có xuất bản trong sách "Bảo Đại - Con Rồng Việt Nam". Cũng từ cái chiếu thoái vị của vua Bảo Đại mà Việt minh đã tự nhận mình là "kế thừa hợp pháp" nhưng sự thừa nhận này là hoàn toàn phi pháp vì:
1. Căn cứ để Việt minh thừa nhận Việt Nam dân chủ cộng hòa là kế thừa hợp pháp:
Xin trích dẫn toàn bộ đoạn đầu của bản chiếu thoái vị:
"Vì hạnh phúc của dân tộc Việt Nam,
Vì nền độc lập của Việt Nam,
Để đạt hai mục đích ấy, Trẫm tuyên bố sẵn sàng hy sinh tất cả, và ước mong rằng sự hy sinh của Trẫm đem lại lợi ích cho Tổ quốc.
Nhận định rằng sự đoàn kết của toàn thể đồng bào chúng ta vào giờ phút này là một sự cần thiết cho Tổ quốc chúng ta, ngày 23 tháng 8, Trẫm đã nhắc lại cho toàn thể nhân dân ta là: Ở giờ phút quyết định này của Lịch sử, đoàn kết có nghĩa là sống, mà chia rẽ là chết.
Chiếu đà tiến dân chủ đang đẩy mạnh ở miền Bắc nước ta, Trẫm e ngại rằng một sự tranh chấp giữa miền Bắc với miền Nam khó tránh được, nếu Trẫm đợi sau cuộc trưng cầu dân ý, để quyết định thoái vị. Trẫm hiểu rằng, nếu có cuộc tranh chấp đó, đưa cả nước vào hỗn loạn đau thương, thì chỉ có lợi cho kẻ xâm lăng.
Trẫm không thể không ngậm ngùi khi nghĩ đến các tiên đế đã chiến đấu trên bốn trăm năm để mở mang bờ cõi từ Thuận Hóa đến Hà Tiên. Trẫm không khỏi tiếc hận là trong hai mươi năm ở ngôi, Trẫm không thể làm gì đem lại lợi ích đáng kể cho đất nước.
Mặc dù vậy, và vững mạnh trong sự tin tưởng của mình, Trẫm đã quyết định thoái vị, và Trẫm trao quyền cho Chính phủ Dân chủ Cộng hòa".
Đó, Việt minh căn cứ vào đoạn chiếu "Chiếu đà tiến dân chủ đang đẩy mạnh ở miền Bắc nước ta" và đoạn chiếu "Trẫm trao quyền cho Chính phủ Dân chủ Cộng hòa" rồi thừa nhận rằng Việt Nam dân chủ cộng hòa là "kế thừa hợp pháp". Tuy nhiên có hợp pháp hay không thì ta tiếp tục đọc đoạn chiếu sau cùng với việc đối chiếu những việc làm sau này của Việt minh.
2. Đoạn chiếu thoái vị sau của Vua Bảo Đại đã phủ nhận quyền kế thừa hợp pháp của Việt Nam dân chủ cộng hòa:
Trước khi từ giã ngai vàng, Trẫm chỉ có ba điều muốn nói:
- Thứ nhứt: Trẫm yêu cầu tân chánh phủ phải giữ gìn lăng tẩm và miếu mạo của hoàng gia.
- Thứ hai: Trẫm yêu cầu tân chánh phủ lấy tình huynh đệ đối xử với các đảng phái, các phe nhóm, các đoàn thể đã chiến đấu cho nền độc lập của đất nước, mặc dù không theo cùng đường hướng dân chủ của mặt trận, như vậy có thể giúp cho họ được tham gia vào sự kiến thiết đất nước, và chứng tỏ rằng tân chế độ đã được xây dựng trên tình đoàn kết dứt khoát của toàn thể nhân dân.
- Thứ ba: Trẫm yêu cầu tất cả các đảng phái, các phe nhóm, tất cả các tầng lớp xã hội cũng như toàn thể hoàng gia phải đoàn kết chặt chẽ để hậu thuẫn vô điều kiện cho chánh phủ Dân chủ Cộng hòa, hầu củng cố nền độc lập quốc gia. Riêng về phần Trẫm, trong hai mươi năm ở ngôi, Trẫm đã trải qua bao nhiêu cay đắng. Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị.
Từ nay Trẫm lấy làm sung sướng được là Dân tự do, trong một nước độc lập. Trẫm không để cho bất cứ ai được lợi dụng danh nghĩa Trẫm, hay danh nghĩa hoàng gia để gieo rắc sự chia rẽ trong đồng bào của chúng ta.
Việt Nam độc lập muôn năm,
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muôn năm,
Khâm thử. Bảo Đại. Huế, điện Kiến Trung ngày 25 tháng 8 năm 1945.
Đến ngày 02/9/1945, lợi dụng lúc quân đội Nhựt Bổn ký VĂN KIỆN ĐẦU HÀNG ĐỒNG MINH trên chiến hạm Missouri của Hải quân Mỹ đang thả neo ở Vịnh Tokyo, hồ chính minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập được sao chép, cắt ghép từ tuyên ngôn của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Trở lại chuyện vua Bảo Đại, sau khi tuyên chiếu thoái vị, Bảo Đại được Việt minh "lưu dụng", tháng 9/1945, ông được hồ chí minh triệu ra Hà Nội nhận chức "Cố vấn tối cao Chính phủ Lâm thời Việt Nam" và là một trong bảy thành viên của Ủy ban Dự thảo Hiến pháp do hồ chí minh làm chủ tịch Ủy ban này. Ngày 01/6/1946 ông được bầu làm Đại biểu Quốc Hội khóa đầu tiên của Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Ngày 28/02/1946 tại Trùng Khánh, Pháp ký với Trung Hoa Dân Quốc hiệp ước Pháp - Hoa. Những điều khoản chính: Trung Hoa đồng ý để quân Pháp vào Bắc vĩ tuyến 16 trở lên thay Trung Hoa giải giáp quân Nhựt, đổi lấy việc Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất Trung Hoa; Pháp bán lại đường sắt Côn Minh - Hồ Kiều và miễn thuế quá cảnh ở Hải Phòng cho Trung Hoa.
Ngày 06/3/1946 tại Hà Nội, Hiệp định sơ bộ Pháp - Việt được ký kết giữa Jean Sainteny, đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp, và hồ chí minh cùng Vũ Hồng Khanh đại diện Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong đó có các điều khoản quan trọng:
- Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam thay quân Tưởng Giới Thạch và sẽ rút hết sau 5 năm, mỗi năm rút 3000 quân.
- Hai bên đình chỉ ngay xung đột để mở rộng đàm phán chánh thức.
Ngày 16/3/1946, Bảo Đại được cử tham gia phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Trùng Khánh thăm viếng Trung Hoa. Mục đích của chuyến đi này của phái bộ Việt Nam dân chủ cộng hòa là để "phân bua" với Tưởng Giới Thạch về cái tội đã ký Hiệp định sơ bộ Pháp - Việt vào ngày 06/3/1946 với ý đồ "mượn tay Pháp hất cẳng Tưởng", đồng thời "vu cáo" rằng các đảng phái thân với Tưởng Giới Thạch trong chánh phủ Liên hiệp kháng chiến như Việt Cách của Nguyễn Hải Thần, Việt Quốc của Nguyễn Tường Tam, lực lượng thân với Tưởng Giới Thạch của Vũ Hồng Khanh,... đã ép hồ chí minh phải ký Hiệp định sơ bộ Pháp - Việt nhằm nhờ Pháp trục xuất Hoa Quân khỏi Việt.
Qua những diễn tiến trên cho thấy bản chất BÁN NƯỚC - TRÁO TRỞ - HAI MẶT của hồ chí minh. Sau khi hồ chí minh "đu dây" thành công giữa Pháp với Tưởng Giới Thạch thì một cuộc thanh trừng, trả thù tàn khốc được Việt minh do đồ tể Võ Nguyên Giáp cầm đầu được thực tế rộng khắp. Việt minh dựng lên những màn vu cáo đê hèn để triệt hạ đối thủ, giết chết những chí sỹ bất hợp tác với hồ chí minh như vụ xử tử ông Phạm Quỳnh và Tổng đốc Quảng Nam Ngô Đình Khôi là anh ruột ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Huân con trai của Ngô Đình Khôi vào sáng ngày 06/9/1945 cũng như vụ án phố Ôn Như Hầu vào tháng 7/1946 là những minh chứng tội ác của hồ chí minh và Võ Nguyên Giáp.
Với trò gắp lửa bỏ tay người, gian manh, quỷ quyệt, Việt minh do hồ chí minh cầm đầu đã thủ tiêu, triệt thoái tất cả các đảng phái đối lập và các chí sỹ không thần phục Việt minh. Tới tháng 8/1946, tất các đảng phái đối lập, ngoại trừ Giáo hội Công giáo, đều bị tiêu diệt, vô hiệu hóa, hoặc buộc phải lưu vong. Toàn cõi Việt Nam lúc bấy giờ nhuốm màu tang tóc, chết chóc bởi bàn tay khát máu của tiền thân "chủ nghĩa khủng bố" là đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do đồ tể Võ Nguyên Giáp cầm đầu mà theo sử gia David G. Marr, đó là một thời kỳ đầy hận thù, phản bội và giết chóc.
Bản chất "bán nước" của hồ chí minh thể hiện rõ tại Hiệp định sơ bộ Pháp - Việt với mục đích buộc Việt Nam quay lại gia nhập vào Liên bang Đông Dương do Pháp bảo hộ. Bản chất "đu dây" đã được hồ chí minh thể hiện qua việc giả đò "giải tán" Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 11/11/1945 để mong nhận được sự công nhận của các cường quốc đứng đầu là Mỹ rằng Việt Nam dân chủ cộng hòa là nhà nước "thụ đắc - kế thừa hợp pháp" tại quốc gia Việt Nam.
Bản chất "đu dây, hai mặt" của hồ chí minh càng được minh chứng thêm đó là cửa phái bộ có sự tham gia của Bảo Đại sang Trùng Khánh để phân bua, vu cáo với Tưởng Giới Thạch vào ngày 16/3/1946. Nhơn chuyến đi này, cựu hoàng Bảo Đại đã tách khỏi đoàn để tới Côn Minh rồi Hương Cảng. Tại Hong Kong, Bảo Đại đã tiếp xúc với nhiều giới chánh trị, trong đó có người Mỹ và đã trao cho Thống tướng lục quân George Marshall đại diện Mỹ bản giao ước, để ông này đem về trình Tổng thống Harry S. Truman.
Lý do cựu hoàng Bảo Đại ly khai khỏi Việt Nam dân chủ cộng hòa là vì hồ chí minh là kẻ tráo trở, bội ước, đã không làm đúng chiếu thoái vị mà Việt minh cam kết với vua Bảo Đại. Bằng chứng là sau khi vua Bảo Đại tuyên chiếu thoái vị thì Việt minh bắt đầu tiến trình đàn áp, trả thù một cách tàn bạo, dã man, bừa bãi, vô tội vạ. Đặc biệt là hồ chí minh đã công khai bán nước cho thực tế Pháp tại Hiệp định sơ bộ Pháp - Việt được ký ngày 06/3/1946.
Trước việc cựu hoàng Bảo Đại ly khai, hồ chí minh đã dựng lên những kịch bản nói xấu vua Bảo Đại để lừa bịp thần dân của ngài như chuyện bịa đặt rằng trong thời gian lưu trú tại Hong Kong, Bảo Đại thường lui tới các sòng bạc và sàn nhảy tại với cái tên "Wang Kunney tiên sinh", nhiều lần khiến các sòng bạc phải kinh ngạc vì những khoản tiền cược rất lớn trong các ván bạc. Rồi hồ chí minh bịp bợm rằng tháng 12/1946, hồ chí minh cử bác sỹ Phạm Ngọc Thạch đem tiền và vàng qua Hong Kong cho Cố vấn Vĩnh Thụy chi tiêu. Đến trước tháng 8/1947, trả lời phỏng vấn của báo chí, hồ chí minh không ngần ngại đáp rằng: "Chúng tui xa mặt chứ không cách lòng. Chánh phủ và nhân dân Việt Nam hoàn toàn tin tưởng vào sự trung thành của Cố vấn Vĩnh Thụy hiện đang ở nước ngoài nhưng vẫn tiếp tục làm việc cho chánh phủ quốc gia mà Cố vấn vẫn là thành viên”.
Vậy bác sỹ Phạm Ngọc Thạch có mang tiền và vàng qua Hong Kong vào cuối tháng 12/1946 không ? Câu trả lời là có nhưng không có để chuyển cho Bảo Đại ăn chơi nhảy múa, bài bạc như tuyên truyền của hồ chí minh. Thực chất thì trước khi cử bác sỹ Phạm Ngọc Thạch mang tiền và vàng sang Hong Kong, ngày 04/9/1945 hồ chí minh đã "cướp khéo" của dân qua việc ký sắc lệnh thực hiện “Qũy độc lập” và “Tuần lễ vàng” với kết quả là đã gom được tổng cộng 20 triệu đồng Đông Dương và 370 ký vàng. Để tiêu thụ số vàng này đồng thời để mua sắm hàng hóa, thực phẩm, dược phẩm phục vụ cho hồ chí minh nói riêng và chóp bu Việt minh nói chung cũng như quà cáp cho các lãnh đạo của các chánh khách của các cường quốc, lân bang và mua chuộc các sỹ phu yêu nước, hồ chí minh đã cắt cử bác sỹ Phạm Ngọc Thạch ôm tiền và vàng sang Hương Cảng mua sắm rồi đổ vấy rằng đưa cho Bảo Đại tiêu xài.
Phải công nhận hồ chí minh cực kỳ xảo trá, bởi trước khi hắn sai bác sỹ Phạm Ngọc Thạch ôm tiền và vàng đi Hong Kong, ngày 27/11/1946 hắn đã có bài viết đăng trên báo Cứu quốc với tiêu đề “Nghĩa thương” với lý giải: "Nghĩa thương” là phương pháp để dành “để dành để khỏi lo cả đời, không mất đi đâu cả, kẻ giàu để dành nhiều, kẻ nghèo để dành ít. Giao cho Bộ Canh nông lo”. Cũng trong thời gian này, hồ chí minh đã gởi các bức tới Trường Quân y năm 1946 với giọng điệu "nhơn nghĩa giả vờ" hòng tạo ra những màn khói che phủ cho chuyến "tẩu tán tài sản quốc gia" của bác sỹ Phạm Ngọc Thạch rồi đổ vấy cho Bảo Đại một cách tinh vi, quỷ quyệt.
Tuy nhiên, người tính không bằng trời tính, hồ chí minh đã không lường trước được việc cựu hoàng Bảo Đại đã tranh thủ sự tin tưởng của hắn để lưu vong ở Hương Cảng, để mưu đại sự phục quốc, thế thiên hành đạo mà một trong những việc làm mang ttầm vóc lịch sử của cựu hoàng Bảo Đại đó là ngài đã tiếp xúc với Thống tướng lừng danh thế giới là Thống tướng lục quân Mỹ George Marshall và đã trao cho Thống tướng bản giao ước, để ông này đem về trình Tổng thống Harry S. Truman.
Cũng vì bản giao ước do Bảo Đại trao cho Thống tướng lục quân Mỹ George Marshall mà tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là ông Harry S. Truman đã không thừa nhận Việt Nam dân chủ cộng hòa là nhà nước kế thừa hợp pháp dù hồ chí minh đã không dưới 8 lần gởi điện và thỉnh nguyện thơ đề nghị Mỹ thừa nhận Việt Nam dân chủ cộng hòa trong năm 1946. Bởi vì theo Thống tướng George Marshall và cả tổng thống Harry S. Truman mà sau này vào năm 1947 được thế giới biết đến với Kế hoạch Marshall - Marshall Plan và Học thuyết Truman và Học thuyết Hiệu ứng Domino sau này thì "Mỹ ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc nhưng với điều kiện người lãnh đạo không phải là người cộng sản".
Chuyến bay định mịnh của cựu hoàng Bảo Đại đến Hong Kong ngày 16/31946 được xem là hòn đá tảng cản đường chủ nghĩa cộng sản đang tràn xuống phương Nam bởi sau chuyến đi đó thì Quốc gia Việt Nam với Hoàng kỳ Tam Tài ra đời, nền cộng hòa bắt đầu đâm chồi nảy lộc trên đất nước Việt Nam kể từ đó. Xin mời quý vị tham khảo phần I và phần II đã viết được dẫn link ở dưới. Sẽ viết tiếp phần IV. Trân trọng./.
Tran Hung.
4.BẢN CHẤT GIAN XẢO CỦA hồ chí minh VÀ SỰ TRỞ VỀ CỦA CỰU HOÀNG BẢO ĐẠI
Viết tiếp theo chủ đề "QUYỀN KẾ THỪA HỢP PHÁP LÀ KHÚC XƯƠNG ĐANG MẮC CỔ SONG CỘNG" - PHẦN IV
1. Bản chất gian xảo của hồ chí minh:
Năm 1916, sau khi Viên Thế Khải mất, Trung Hoa lục địa rơi vào cảnh ly loạn bởi các lãnh chúa quân phiệt chia nhau cai trị tại các khu vực Tứ Xuyên, Sơn Tây, Thanh Hải, Ninh Hạ, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Cam Túc và Tân Cương.
Trước tình hình đó, Tôn Trung Sơn buộc phải bằng mọi giá đánh bại lực lượng quân phiệt vốn đang nắm quyền kiểm soát phần lớn miền Hoa Bắc và Hoa Nam. Vì vậy, một mặt Tôn Trung Sơn kêu gọi sự hợp tác từ các lực lượng phản đế, một mặt phải tranh thủ sự trợ giúp từ nước ngoài. Tuy nhiên các nỗ lực tìm kiếm ủng hộ từ các quốc gia dân chủ phương Tây của Tôn Trung Sơn thất bại, và tới năm 1921 ông quay sang Liên Sô. Ngặt một nỗi là Liên Sô cũng đeo đuổi mục đích chánh trị với chính sách hỗ trợ cả Tôn Trung Sơn lẫn đảng cộng sản mới thành lập ở Trung Hoa. Vì vậy đã xuất hiện một cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa Quốc dân đảng và đảng cộng sản Trung Hoa ngay từ lúc này.
Dưới trướng của Tôn Dật Tiên lúc bấy giờ, có một sỹ quan cao cấp người Việt Nam đó là Hồ Học Lãm, tên khai sanh là Hồ Xuân Lan, người gốc ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Bác ruột của Hồ Học Lãm là Hồ Bá Ôn, cha của Hồ Tùng Mậu, Hồ Tùng Mậu là ông nội ruột của Hồ Đức Việt, kẻ định tranh chức tổng bí thơ sau khi Nông Đức Mạnh trả ghế, kẻ đòi khởi tố sâu chúa Nguyễn Tấn Dũng vụ Vinashin và sau đó đã bị loại biên khỏi Đại hội IX năm 2011 để Nguyễn Phú Trọng thay Nông Đức Mạnh. Hồ Đức Việt ra rìa nên uất ức và chết năm 2013.
Mẹ của Hồ Học Lãm là bà Trần Thị Trâm, tên tục là Bà Lụa, con gái của tiến sỹ Trần Hữu Dực, chồng của bà là liệt sỹ Hồ Bá Trị, ông này bị Pháp giết vào năm 1886 để lại 2 người con nhỏ là Hồ Xuân Kiêm và Hồ Học Lãm mới 2 tuổi đầu. Sanh thời, Bà Lụa tích cực tham gia phong trào Cần Vương và Đông Du của Phan Đình Phùng - Phan Bội Châu nên Bà được đặt tên là “Tiểu Trưng”. Sổ dĩ mẹ của Hồ Học Lãm có tên tục là Bà Lụa vì bà sắm vai buôn lụa để hoạt động chống Pháp.
Tại sao tui lại nhắc tới ông Hồ Học Lãm khi đang nói về hcm ? Tại vì có một tình tiết rất quan trọng đó là chị đầu của Nguyễn Sinh Cung là cô Chiêu Thanh, tức bà Nguyễn Thị Thanh là con nuôi của Bà Lụa, mẹ của ông Hồ Học Lãm. Tui đưa tình tiết này vô để từ đó xâu chuỗi, liên kết lại những tình tiết tiếp diễn để đi đến khẳng định Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc, người được sanh ra ở Nghệ An và theo tàu buôn của Pháp để gọi là "tìm đường cứu nước" đã chết vì bịnh ho lao trong trạm xá nhà lao ở Hong Kong như nguồn tin của tờ báo Nhơn Đạo - L'Humanité đăng tại số báo ngày 09/8/1932 đưa tin Tống Văn Sơ - Nguyễn Ái Quốc đã chết do bịnh ho lao.
Sau khi Tôn Dật Tiên mất năm 1925 thì năm 1927 Tưởng Giới Thạch làm binh biến để thay đổi đường lối chánh trị. Lúc này Hồ Học Lãm vẫn được Tưởng Giới Thạch lưu dụng, trở thành một sỹ quan cao cấp trong quân đội Tưởng Giới Thạch và Hồ Học Lãm được điều công tác về Bộ Tổng Tham mưu tại Nam Kinh - Giang Tô.
Chỉ vài tháng sau khi Tôn Dật Tiên mất, Tưởng Giới Thạch, với vai trò tổng chỉ huy Quân đội cách mạng quốc gia, tiến hành cuộc Bắc phạt. Tuy nhiên, tới năm 1926, Quốc dân đảng đã phân hóa thành PHÁI TẢ và PHÁI HỮU, những người cộng sản trong hàng ngũ Quốc dân đảng cũng phát triển mạnh. Tháng 3/1926, biến cố tàu Trung Sơn xảy ra, Tưởng Giới Thạch đã kịp thời phá vỡ âm mưu bắt cóc mình, và áp đặt lịnh cấm thành viên đảng cộng sản giữ các vị trí lãnh đạo trong Quốc dân đảng.
Ngày 07/4/1927, Tưởng Giới Thạch và một số lãnh đạo Quốc dân Đảng họp, và đưa ra quan điểm các hoạt động của đảng cộng sản làm rối loạn xã hội và kinh tế, và cần phải ngưng lại để cuộc cách mạng quốc gia có thể tiếp tục tiến triển. Kết quả của cuộc họp này là ngày 12/4/1927, Tưởng Giới Thạch quay ra xử lý những người cộng sản tại Thượng Hải. Quốc dân Đảng tiến hành thanh trừng khỏi hàng ngũ của mình các thành viên cánh tả, và hàng trăm đảng viên cộng sản bị bắt giữ hay bị hành quyết. Sự kiện này được gọi tên là "chính biến Thượng Hải", "biến cố ngày 12 tháng 4", hay là "cuộc thảm sát Thượng Hải".
Trước cuộc thanh trừng của Tưởng Giới Thạch, đảng cộng sản định tổ chức giành chánh quyền tại một số thành phố lớn như Nam Dương, Trường Sa, Sán Đầu, và Quảng Châu. Đảng viên Cộng sản, cùng với nông dân và thợ mỏ tại Hồ Nam dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông đã tiến hành một cuộc nổi dậy, nhưng thất bại. Tại Trung Hoa lúc đó tồn tại ba thủ đô, thủ đô được quốc tế công nhận tại Bắc Kinh, Phe cộng sản và phe cánh tả thuộc Quốc dân đảng đóng thủ đô tại Vũ Hán và phe cánh hữu Quốc dân đảng do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo đóng đô tại Nam Kinh, thành phố này sẽ tiếp tục đóng vai trò thủ đô của Quốc dân đảng trong suốt một thập kỷ kế tiếp.
Tuy ở dưới trướng của Tưởng Giới Thạch nhưng Hồ Học Lãm lại có tư tưởng theo chủ nghĩa cộng sản. Trong cương vị là một sỹ quan cao cấp trong đội Tưởng Giới Thạch, được điều công tác về Bộ Tổng Tham mưu tại Nam Kinh - Giang Tô, Hồ Học Lãm đã liên lạc với Mao Trạch Đông. Sở dĩ Hồ Học Lãm liên lạc với Mao Trạch Đông vì sau khi Tưởng Giới Thạch tiến hành thanh trừng cộng sản, Mao Trạch Đông đã lãnh đạo những người cộng sản rút lui về vùng nông thôn hoạt động bí mật, chuẩn bị cho nổi loạn. Bắt đầu bằng cuộc nổi loạn Nam Xương ngày 01/8/1927 và một số thành phố khác tại Hoa nam. Mao Trạch Đông hợp sức với dư đảng của các lực lượng nổi loạn nông dân, các băng cướp thiết lập quyền kiểm soát tại nhiều nơi ở miền nam Trung Hoa. Tại Châu, cộng sản đã cướp được chánh quyền trong vòng 3 ngày, và thiết lập Sô - viết Quảng Châu.
Trước sự nổi loạn của cộng sản ở Trung Hoa, Hồ Học Lãm đã liên lạc với cháu ruột của mình là Hồ Tùng Mậu khẩn trương thành lập An Nam cộng sản ở Hong Kong vào năm 1929 để chuẩn bị làm cuộc nổi loạn Sô Viết Nghệ Tĩnh sau này vào năm 1930 ở quê nhà, sẽ nói về vụ này sau.
Quay lại mối quan hệ giữa Hồ Học Lãm với Nguyễn Ái Quốc, cha của Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Sinh Sắc là con rơi của Hồ Sỹ Tạo với bà Hà Thị Hy. Hồ Sĩ Tạo quê làng Lai Nhã, xã Thái Nhã, tổng Võ Liệt, huyện Thanh Chương, nay là xã Thanh Khê, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Theo gia phả Hồ tộc làng Song Nhã nơi Hồ Sỹ Tạo được sanh ra thì họ Hồ ở thôn Lai Nhã - xã Thái Nhã là một nhánh của họ Hồ ở Cương Gián, Nghi Xuân, Hà Tĩnh và cũng từ ông tổ họ Hồ làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu Nghệ An mà ra. Tức Hồ Học Lãm và ông nội của Nguyễn Ái Quốc cùng gia phả.
Như vậy, xét về quan hệ huyết thống thì Hồ Học Lãm và Nguyễn Ái Quốc có quan hệ thân tộc bởi ông nội của Nguyễn Ái Quốc là Hồ Sỹ Tạo với Hồ Học Lãm có cùng ông tổ họ Hồ làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu Nghệ An mà ra. Vì vậy sẽ không có gì phải ngạc nhiên khi Nguyễn Ái Quốc lang bạt kỳ hồ ở trời Tây, rồi cuối năm 1924, từ Liên Sô Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu theo phái đoàn cố vấn của chánh phủ Liên Sô do Mikhail Markovich Borodin làm trưởng đoàn đến giúp chánh phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch, làm phiên dịch lấy tên là Lý Thụy.
Sau đó, năm 1925, Nguyễn Ái Quốc tập hợp Việt kiều và thành lập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu để truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin vào Việt Nam. Cùng năm 1925, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm Hội trưởng và ông làm Bí thơ. Tổ chức này sau đó trở thành đảng cộng sản Nam Hải (the South Seas Communist party), tiền thân của một loạt các tổ chức cộng sản sau này, bao gồm có cả đảng cộng sản Đông Dương.
Trong thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc cũng gửi một loạt người Việt đi học trường quân sự của Tưởng Giới Thạch tại Quảng Châu, đồng thời tiến hành một khóa đào tạo về khởi nghĩa võ trang. Do Tưởng Giới Thạch thanh trừng cộng sản Trung Hoa và Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu đi Hong Kong, rồi thoát sang Liên Sô theo đường sa mạc Gobi.
Tháng 11/1927, Nguyễn Ái Quốc được cử đi Pháp rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại Hội đồng của Liên đoàn Chống đế quốc từ ngày 9 đến ngày 12/12/1927 tại Brussel, vương quốc Bỉ. Mùa thu 1928, Nguyễn Ái Quốc từ châu Âu đến Xiêm La, Thái Lan, cải trang là một nhà sư đầu trọc, với bí danh Thầu Chín để tuyên truyền và huấn luyện cho Việt kiều tại Xiêm, đồng thời xuất bản báo gửi về nước. Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc rời khỏi Vương quốc Xiêm La và sang Trung Hoa.
Ngày 03/02/930, tại Cửu Long, thuộc Hương Cảng, Nguyễn Ái Quốc đã thâu tóm, hợp nhứt ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương thành đảng cộng sản Việt Nam, sau đổi tên là đảng cộng sản Đông Dương, rồi đảng Lao động Việt Nam và nay là đảng cộng sản Việt Nam. Cũng vào năm này, cuộc nổi loạn Sô Viết Nghệ Tĩnh bùng nỏ do đảng cộng sản chỉ đạo nhưng thất bại, đảng cộng sản Đông Dương, bị cấm hoạt động, đồng thời Nguyễn Ái Quốc bị xử tử hình vắng mặt.
Tới đây đã dễ dàng hình dung Nguyễn Ái Quốc ở gia đoạn này là Nguyễn Sinh Cung, là cháu của Hồ Học Lãm, được Hồ Học Lãm dựng lên để tính đường "cứu quốc". Bởi vì chỉ có Hồ Học Lãm với cương vị là một sỹ quan cao cấp dưới trướng của Tưởng Giới Thạch mới giúp Nguyễn Ái Quốc làm được những việc to tác kia. Thêm một bằng chứng khẳng định Hồ Học Lãm là "bầu sô" của Nguyễn Ái Quốc đó là sau khi cháu ruột của Hồ Học Lãm là Hồ Tùng Mậu thành lập An Nam cộng sản Đảng thành vào tháng 8/1929 và đang hoạt động ở Hong Kong, Hồ Học Lãm được mời tham gia nhưng đã từ chối vì Hồ Học Lãm vẫn muốn giữ bề ngoài là cán bộ của Quốc dân đảng trong chánh quyền của Tưởng Giới Thạch sẽ tiện cho việc bí mật giúp đỡ phong trào cách mạng của Nguyễn Ái Quốc.
Năm 1931, dưới tên giả là "Tống Văn Sơ - Sung Man Ch'o", Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền Hong Kong bắt giam với ý định trao cho chánh quyền Pháp ở Đông Dương. Tờ L'Humanité - Nhân đạo, số ra ngày 09/8/1932 đưa tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bịnh ho lao trong trạm xá nhà tù tại Hong Kong, đồng thời tố cáo đây là âm mưu của Pháp câu kết với Anh nhằm ám sát người lãnh đạo đảng cộng sản Đông Dương. Sau đó, nhờ sự biện hộ và giúp đỡ tận tình của luật sư Frank Loseby, Sung Man Ch'o được thả ngày 28/12/1932, Sung Man Ch'o đi Thượng Hải rồi bí mật quay trở lại Liên Sô.
Đến đây chúng ta có thể hình dung ra được tại sao sống thì mang họ Nguyễn, chết thì mang họ Hồ, tra trên Google thì ra cái tên BẢ CHÓ và tại sao hàng loạt "đồng chí" như Hồ Tùng Mậu, Trịnh Đông Hải, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên,... những người thường xuyên tiếp xúc với Nguyễn Ái Quốc đều bị chết sau khi Bả Chó được luật sư Frank Loseby cứu ra khỏi nhà tù Hong Kong. Kể cả Hồ Học Lãm cũng bị chết vào ngày 12/4/1943 tại Quế Lâm do bịnh "suy tim, hen suyễn nặng".
Có một sự trùng hợp lạ lùng đó là mnăm 1940, Hồ Học Lãm bị "bịnh nặng", phải nằm nhà thương tại Quế Lâm thì cuối năm đó, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc, Biện sự xứ hải ngoại của Việt Minh được thành lập ở Quế Lâm, Hồ Học Lãm được mời làm Chủ nhiệm, Phạm Văn Đồng làm Phó chủ nhiệm. Hội Trung-Việt văn hóa cách mạng đồng chí được thành lập, Hồ Học Lãm và Phạm Văn Đồng đều tham gia Ban lý sự với tư cách là Chánh, Phó Chủ nhiệm Việt Minh.
Cũng trong giai đoạn này, người ta lại thấy xuất hiện một thiếu tá trong Bát Lộ Quân của Lâm Bưu ở Quế Lâm có tên là Hồ Quang. Có điều lạ là Hồ Quang tuy làm việc ở Trung Sơn Bắc, nhưng thiếu tá Hồ Quang lại ăn nghỉ ở thôn Lộ Mạc ngoại thành Quế Lâm trong khi đó Hồ Học Lãm và những người cộng sản Việt Nam lại ở trung tâm thủ phủ Quế Lâm. Tiếp đến, ngày 13/8/1942, với tên mới hồ chí minh, hcm đi Tịnh Tây - Trung Hoa. Đến 27/8/1942, hcm lên huyện Đức Bảo để liên lạc với lực lượng cách mạng và đồng minh thì bị Quốc dân đảng bắt giữ, với lý do giấy thông hành của hcm đã hết hạn. Sau đó hcm bị giải qua 13 ngục thất thuộc tỉnh Quảng Tây, trong đó có nhà lao Quế Lâm... Cũng trong giai đoạn này mới đẻ ra cái vụ đạo thơ mà tập thơ Ngục trung nhựt ký - Nhựt ký trong tù.
Sau đó hcm được Chu Ân Lai thương lượng với Tưởng Giới Thạch cứu ra khỏi tù. Tại sao Hồ Học Lãm với cương vị sỹ quan cao cấp của Tưởng Giới Thạch không cứu hcm mà để Chu Ân Lai, kẻ thù không đội trời chung với Tưởng Giới Thạch cứu hcm ? Sau khi được Chu Ân Lai cứu ra, mùa thu năm 1943 ở Liễu Châu, hcm "tập leo núi", đến tháng 9/1944, hcm về hang Cốc Pó, Cao Bằng và dân tộc Việt Nam phải chứng kiến cảnh phân qua, ly loạn, máu chảy đầu rơi do tổ chức khủng bố Việt minh dưới sự chỉ huy của hcm và cầm đầu trực tiếp là đồ tể Võ Nguyên Giáp.
Hồ Học Lãm chết ngày 12/4/1943 do "bịnh nặng" thì hcm được Chu Ân Lai cứu ra rồi sau đó mò về hang Cốc Pó, Cao Bằng. Sự trùng hợp này phần nào nói lên thân phận thực sự của Hán tặc hồ chí minh, hcm mà Việt cộng tôn thờ chính là tên Hán tặc Hồ Quang được cải trang thành Tống Văn Sơ - Sung Man Ch'o khi Ch'o đã bị chết ở nhà lao Hong Kong do bị bịnh ho lao mà người chủ trương "cải lão hoàn đồng" cho Nguyễn Ái Quốc chính là Mao Trạch Đông - Chu Ân Lai - Hồ Học Lãm.
Tuy nhiên, do Hồ Học Lãm phát hiện muộn màng rằng Mao Trạch Đông - Chu Ân Lai thay Nguyễn Ái Quốc bằng Hồ Quang không phải giúp cho Học Lãm giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách đô hộ của thực dân, đế quốc mà chỉ để áp đặt ách nô lệ mới của Tàu cộng lên đất nước Việt Nam nói riêng và bán đảo Đông Dương cũng như cả vùng Đông Nam Á nói chung. Nhưng hỡi ôi! Hồ Học Lãm chưa kịp loan tin, tố cáo thì đã bị tiễn vong gặp Mác - Lê do BỊNH NẶNG để rồi sau này những ai đã từng tiếp xúc với Nguyễn Ái Quốc cũng bị thủ tiêu, trong đó có cái chết của cụ Phạm Quỳnh, cha ruột của nhạc sỹ Việt cộng hiện nay là Phạm Tuyên, lý do ông Phạm Quỳnh đã được Nguyễn Ái Quốc diện kiến khi ông ta kinh lý bên Pháp. Sẽ viết tiếp./.
Tran Hung.
Không có nhận xét nào